Bản án về tranh chấp ly hôn số 02/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 1397/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 81/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ái V - Sinh năm: 1982 Địa chỉ: 40/9 TA, phường PH, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Bị đơn: Ông Nguyễn Viết D - Sinh năm: 1980 Địa chỉ: 40/9 TA, phường PH, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và các biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Lê Thị Ái V trình bày:

Tôi và ông Nguyễn Viết D có đăng ký kết hôn tự nguyện vào năm 2007 tại Ủy ban nhân dân phường PH, thành phố Nha Trang. Trong quá trình chung sống chúng tôi thường xuyên xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cải vã; Nhiều lần vợ chồng cùng ngồi lại hòa giải nhưng không có kết quả. Nay nhận thấy không thể tiếp tục sống chung được nữa nên tôi yêu cầu ly hôn với ông D.

Về con chung: Chúng tôi không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Chúng tôi không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải, bị đơn ông Nguyễn Viết D trình bày:

Về hôn nhân: Tôi và cô Lê Thị Ái V có đăng ký kết hôn tự nguyện vào năm 2007, tại Ủy ban nhân dân phường PH, thành phố Nha Trang. Quá trình chung sống, chúng tôi thường xuyên xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cải vã, nguyên nhân chính vì chúng tôi vẫn chưa có con chung. Nhưng tôi nhận thấy vẫn còn tình cảm với vợ nên không đồng ý ly hôn với cô Lê Thị Ái V.

Về con chung: Chúng tôi không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Chúng tôi không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa: - Nguyên đơn bà Lê Thị Ái V và bị đơn ông Nguyễn Viết D đều vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, bà Lê Thị Ái V được ly hôn với ông Nguyễn Viết D. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết. Án phí: Nguyên đơn chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét ý kiến trình bày của đương sự và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:  Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lê Thị Ái V có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Nguyễn Viết D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự có tên nêu trên.

[2] Về quan hệ hôn nhân và gia đình:  Bà Lê Thị Ái V và ông Nguyễn Viết D tự nguyện đăng ký kết hôn vào năm 2007, tại Ủy ban nhân dân phường PH, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 169, quyển số 01/2007, ngày đăng ký: 24/12/2007. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Qua lời khai của các đương sự có tại hồ sơ, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Thị Ái V và ông Nguyễn Viết D không hạnh phúc do hai vợ chồng chưa có con chung. Cả hai đã tự sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần hòa giải cũng như tạo điều kiện về mặt thời gian để các bên tìm ra phương hướng giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, đến nay bà V vẫn kiên quyết xin ly hôn, trong khi ông D không đưa ra được biện pháp cụ thể để thuyết phục bà V, nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy mục đích hôn nhân của bà V và ông D không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Lê Thị Ái V là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Các đương sự đều khai chưa có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung Các đương sự đều khai không có tài sản chung, không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này các bên đương sự có yêu cầu sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn khởi kiện.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bà Lê Thị Ái V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà bà đã nộp theo Biên lai thu tiền số AA/2016/0017890 ngày 13/112/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Bà Lê Thị Ái V đã nộp đủ án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 56 và Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Lê Thị Ái V được ly hôn với ông Nguyễn Viết D.

2. Về con chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này các bên đương sự có yêu cầu sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn khởi kiện.

4. Về án phí: Bà Lê Thị Ái V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà bà đã nộp theo Biên lai thu tiền số AA/2016/0017890 ngày 13/112/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Bà Lê Thị Ái V đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 02/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;