Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 71/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 71/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 171/2022/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 101/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ngọc H, sinh năm 1994 (có mặt) Địa chỉ: 48/12, khóm MP, phường MQ, thành phố LX, tỉnh An Giang

- Bị đơn: Anh Trần Thanh B, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp HĐ, thị trấn PH, huyện ThS, tỉnh An Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Phạm Thị Ngọc H trình bày:

Chị và anh B do tự tìm hiểu và tự nguyện chung sống với nhau năm 2019, có đăng ký kết hôn ngày 10/6/2020 tại UBND thị trấn Phú Hòa, huyện Thoại Sơn. Thời gian chung sống giữa chị và anh B phát sinh mâu thuẫn do anh B không tu chí làm ăn mà ham mê cờ bạc, phá tán tài sản gia đình, mặc dù chị H đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng không được. Đến năm 2020 thì anh B tự bỏ nhà đi không lý do. Chị H cũng dọn về nhà cha mẹ một sinh sống, vợ chồng cũng không còn chung sống từ đó đến nay. Từ khi bỏ đi đến nay, anh B có vài lần ghé thăm con nhưng không có ý định hàn gắn. Nay nhận thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H yêu cầu được ly hôn anh B.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, chị và anh B có một con chung tên Trần Phạm Tường L, sinh ngày 25/6/2020. Từ khi anh B bỏ đi cháu L đều do chị H chăm sóc, nên khi ly hôn chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh B cấp dưỡng.

Tài sản chung, nợ chung: Không có Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tổ chức các phiên hòa giải để chị H và anh B thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh B nhưng anh B đều vắng mặt không lý do nên việc hòa giải không tiến hành được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho anh B nhưng anh B tiếp tục vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

Tại phiên tòa: Chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ly hôn với anh B; yêu cầu tiếp tục nuôi con chung là cháu Trần Phạm Tường L, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thoại Scm trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi. Anh B vắng mặt lần thứ hai không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, cho chị H được ly hôn anh B; giao cháu Tường L cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, anh B không cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu; tài sản chung, nợ chung: Không xem xét. Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Phạm Thị Ngọc H và anh Trần Thanh B chung sống với nhau có đăng ký kết hôn (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 48/2020, do UBND thị trấn Phú Hòa, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cấp ngày 10 tháng 6 năm 2020). Anh Trần Thanh B có hộ khẩu thường trú tại: Ấp HĐ, thị trấn PH, huyện ThS, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn theo quy định tại Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về t tụng: Tại phiên tòa, anh Trần Thanh B vắng mặt lần thứ hai không lý do, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[3] Xét việc tranh chấp:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh B xác lập quan hệ hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 10/6/2020 tại UBND thị trấn Phú Hòa, huyện Thoại Sơn theo đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Theo chị H trình bày nguyên nhân mâu thuẫn do anh B không tu chí làm ăn mà ham mê cờ bạc dẫn đến nợ nần, mặc dù chị H nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh B không thay đổi nên mâu thuẫn vợ chồng càng lúc càng nghiêm trọng. Đến năm 2020, anh B bỏ nhà đi nên chị H cũng mang con về nhà cha mẹ ruột sinh sống, mặc dù anh B có vài lần ghé thăm con nhưng cả hai cũng không muốn hàn gắn.

[3.2] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở các phiên hòa giải để hai bên có cơ hội hàn gắn nhưng anh B đều vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của chị H cho thấy mâu thuẫn của cả hai đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị H là có cơ sở. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H, chị H được ly hôn với anh B.

[4] Về con chung: Chị H trình bày trong quá trình chung sống chị và anh B có một con chung tên Trần Phạm Tường L, sinh ngày 25/6/2020. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu L, không yêu cầu anh B cấp dưỡng. Nhận thấy cháu L đang sống ổn định với chị H, để không làm xáo trộn cuộc sống của cháu nên cần giao cháu L cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Do chị H không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh B vắng mặt và không có văn bản nêu ý kiến và yêu cầu nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.

[6] Về nợ chung: Theo trình bày của chị H không có nợ chung, anh B vắng mặt và cũng không có văn bản nêu ý kiến và yêu cầu nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.

[7] Về án phí: Chị Phạm Thị Ngọc H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật T tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Ngọc H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Ngọc H được ly hôn anh Trần Thanh B.

Giấy chứng nhận kết hôn số 48/2020, do UBND thị trấn Phú Hòa, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cấp ngày 10 tháng 6 năm 2020 cho chị Phạm Thị Ngọc H và anh Trần Thanh B không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Phạm Tường L, sinh ngày 25/6/2020 cho chị Phạm Thị Ngọc H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Trần Thanh B không cấp dưỡng nuôi con.

Anh Trần Thanh B và các thành viên trong gia đình (nếu có) phải tôn trọng quyền được nuôi con của chị Phạm Thị Ngọc H. Chị Phạm Thị Ngọc H và các thành viên trong gia đình (nếu có) không được cản trở anh Trần Thanh B trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Ngọc H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009036 ngày 23/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, chị H không phải nộp thêm.

Anh Trần Thanh B không phải chịu án phí.

Các đương sự không phải chịu các chi phí tố tụng khác.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 71/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:71/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;