Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 70/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 70/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 163/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXX-ST ngày 12/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27/8/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị N, sinh năm 1989 Đăng ký HKTT: Thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Địa chỉ cư trú: Thôn Kh, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Đoàn Ngọc Q, sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Chị N có mặt, anh Q vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn là chị Bùi Thị N có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về hôn nhân: Chị và anh Đoàn Ngọc Q tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 16/3/2017 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh Q ở Thôn H, xã Q, huyện Q. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Q không chịu khó làm ăn, suốt ngày chơi bời mặc dù đã được chị nhiều lần khuyên bảo nhưng anh Q vẫn không thay đổi. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng vào tháng 9/2018 chị đã đưa con chung về nhà mẹ đẻ ở thôn Kh, xã Q, huyện Q sinh sống, vợ chồng cũng ly thân từ đó cho tới nay không ai quan tâm hỏi han gì đến nhau. Chị N thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị xin được ly hôn anh Đoàn Ngọc Q.

Về con chung: Chị và anh Q có 01 con chung là Đoàn Thị Ngọc A, sinh ngày 31/7/2017. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung cho chị được nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh Q phải góp cấp dưỡng nuôi con, anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Hiện chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị N trình bày vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Đoàn Ngọc Q vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

- Tại biên bản xác minh với bà Nguyễn Thị S (là mẹ đẻ anh Q), địa chỉ: Thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, bà S trình bày: Việc kết hôn giữa chị Bùi Thị N, anh Đoàn Ngọc Q như chị N trình bày là đúng, trước khi anh Q và chị N kết hôn anh chị đã có 01 đời vợ, chồng nhưng đã ly hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình bà ở Thôn H, xã Q, huyện Q. Quá trình chung sống bà thấy vợ chồng đôi khi có xích mích với nhau về kinh tế gia đình. Khoảng tháng 8 năm 2017 sau khi sinh con chị N có xin phép đưa con về nhà mẹ đẻ ở xã Q, huyện Q chơi một thời gian sau đó thì chị N và con không quay về nhà bà sinh sống cùng anh Q nữa. Chị N xin ly hôn, bà S đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật; Về con chung: Chị N, anh Q có 01 con chung là Đoàn Thị Ngọc A, sinh ngày 31/7/2017 hiện nay cháu đang do chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn gia đình bà đề nghị Tòa án giao con chung cho chị N nuôi dưỡng vì cháu đang ở cùng với chị N; Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có.

Bà S cũng trình bày hiện nay anh Q vẫn có hộ khẩu thường trú tại: Thôn H, xã Q, huyện Q, anh Q đi làm ăn tự do địa chỉ cụ thể như thế nào bà không nắm rõ, anh Q vẫn liên lạc về gia đình và khi gia đình có công việc anh vẫn trở về gia đình. Bà đã nhận các văn bản tố tụng mà Tòa án gửi cho anh Q và đã thông báo đầy đủ cho anh Q biết. Quan điểm của anh Q do công việc bận mải anh không lên Tòa án để giải quyết được, anh Q cũng trình bày việc chị N xin ly hôn thì chị N tự giải quyết một mình anh không lên Tòa án để giải quyết được. Về con chung anh đồng ý để chị N được nuôi dưỡng con chung và anh không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị N. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng không có.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng không có ý thức chấp hành pháp luật tố tụng dân sự. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Bùi Thị N và anh Đoàn Ngọc Q là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh anh Đoàn Ngọc Q có địa chỉ cư trú tại xã Q, huyện Q nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn hiện không có mặt tại địa phương nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, không cung cấp cho nguyên đơn biết địa chỉ hiện nay ở đâu là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung và địa chỉ của bị đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị N, anh Q được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn và chung sống được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Q không chịu khó làm ăn, chơi bời mặc dù đẵ được chị N nhiều lần khuyên bảo nhưng anh Q vẫn không thay đổi. Mâu trầm thuẫn trở nên trầm trọng vào tháng 9 năm 2017 sau khi sinh con chị N đã đưa con về nhà mẹ đẻ ở thôn Kh, xã Q, huyện Q sinh sống. Trong thời gian chị N và con ở xã Q sinh sống anh Q có xuống thăm con và khuyên bảo chị N về chung sống cùng anh nhưng chị N thấy anh Q vẫn không thay đổi gì nên chị đã không quay lại sinh sống cùng anh Q. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, biết được việc chị N xin ly hôn nhưng anh Q không trực tiếp đến Tòa án trình bày quan điểm. Điều đó chứng tỏ anh Q không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N, anh Q đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho chị Bùi Thị N được ly hôn anh Đoàn Ngọc Q là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị N, anh Q có 01 con chung là Đoàn Thị Ngọc A, sinh ngày 31/7/2017. Khi ly hôn, chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh Q phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị, anh Q thông qua gia đình cũng đồng ý để chị N nuôi dưỡng con chung và không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị N. Xét đề nghị của Nụ, điều kiện chỗ ở và thấy chị N hiện đang có việc làm và thu nhập ổn định, con chung đang học tập ổ định tại xã Q, huyện Q. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia năm 2014. Ghi nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh Q góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị. Anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Q chưa có lời trình bày về tài sản nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị N phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Bùi Thị N được ly hôn anh Đoàn Ngọc Q.

2. Về con chung: Giao chị Bùi Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đoàn Thị Ngọc A, sinh ngày 31/7/2017 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh Q không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N, anh Q có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung.

Hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị N phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004448 ngày 21/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị N đã nộp đủ tiền án phí.

Chị Bùi Thị N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Đoàn Ngọc Q có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 70/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:70/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;