Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 61/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 61/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 10 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2022/TLST-DS ngày 15 tháng 02 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 100/2022/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị Bích T, sinh năm 1985, Có đơn xin xét xử vắng mặt Cư trú: Ấp P, xã T, huyện TH, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn TR, sinh năm 1986, Vắng mặt Cư trú: Ấp M, xã MH, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà Võ Thị Bích T, trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Bích T và ông Nguyễn Văn TR tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau vào năm 2009. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MH, thành phố L, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 22 ngày 11/02/2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do ông TR không lo cho vợ con, có bạn gái bên ngoài không về gia đình, thường xuyên xúc phạm bà T và cha mẹ bà T, ngoài ra còn đánh đập bà T nhiều lần dẫn đến gây thương tích. Vợ chồng đã ly thân nhau từ ngày 20/12/2021 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông TR.

+ Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung tên Nguyễn Phước T, sinh ngày 15/11/2010 hiện đang sống với bà T. Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu ông TR phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn TR vắng mặt trong quá trình tố tụng, không có văn bản trình bày ý kiến.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, là đảm bảo theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà T tranh chấp về ly hôn, nuôi con với ông TR, tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Ông TR có nơi cư trú tại thành phố L, tỉnh An Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng:

[2.1] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành biện pháp lấy lời khai làm rõ nguyên nhân phát sinh tranh chấp theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2.2] Ông TR đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không tham gia phiên tòa, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt bà T và ông TR.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân:

[3.1.1] Bà T và ông TR tự nguyện quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã MH, thành phố L, tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 22 ngày 11/02/2011. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình. Bà T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông TR. Bà T cho rằng trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông TR không lo cho vợ con, có bạn gái bên ngoài không về gia đình, thường xuyên xúc phạm bà T và cha mẹ bà T, ngoài ra còn đánh đập bà T nhiều lần dẫn đến gây thương tích. Vợ chồng đã ly thân nhau từ ngày 20/12/2021 đến nay.

[3.1.2] Hội đồng xét xử xét: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông TR không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T, không tham dự các phiên hòa giải cũng như không tham dự các phiên tòa. Điều này thể hiện ông TR không muốn đoàn tụ gia đình. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, các bên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung tên Nguyễn Phước T, sinh ngày 15/11/2010 hiện đang sống với bà T. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông TR cấp dưỡng nuôi con chung.

[3.2.1] Xét thấy, cháu T chưa thành niên và có nguyện vọng được sống với bà T. Bà T có công việc làm ổn định đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu T. Ông TR không có ý kiến về yêu cầu được nuôi con chung. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu T, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung tên Nguyễn Phước T, sinh ngày 15/11/2010 cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2.2] Bà T cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông TR trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp ông TR lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bà T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Trường.

[3.2.3] Bà T và ông Trường có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định tại Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.3] Về cấp dưỡng: Bà T không yêu cầu ông TR cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết và ông TR cũng không có ý kiến về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này các bên có phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[3.5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà T có nghĩa vụ nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Bích T. Bà Võ Thị Bích T được ly hôn với ông Nguyễn Văn TR.

Giấy chứng nhận kết hôn số 22 do Ủy ban nhân dân xã MH, thành phố L, tỉnh An Giang cấp cho Võ Thị Bích T và Nguyễn Văn TR ngày 11 tháng 02 năm 2011 hết hiệu lực kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung: Bà Võ Thị Bích T được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Phước T, sinh ngày 15 tháng 11 năm 2010.

Bà T cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông TR trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Trường hợp ông TR lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuô i dưỡng, giáo dục con chung thì bà T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của ông TR.

Bà T và ông TR có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con.

[3] Về cấp dưỡng: Không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Bà T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000963 ngày 14 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L.

[5] Về quyền kháng cáo: Bà T và ông TR được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 61/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:61/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;