Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 53/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH K

BẢN ÁN 53/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 17 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 255/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 64/2022/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Tô Thị Thu T, sinh năm 2002. Địa chỉ: Ấp R, xã T, huyện A1, tỉnh K.

* Bị đơn : Anh Trần Văn C, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Ấp 7, Xáng 2, xã Đ, huyện A, tỉnh K.

(Chị T xin vắng mặt; anh C vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, các ý kiến và yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Tô Thị Thu T trình bày:

Vào năm 2017, chị và anh C chung sống với nhau như vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ. Anh, chị có 01 con chung tên Trần Khánh D, sinh ngày 14/8/2018. Về tài sản chung, nợ chung không có Đến năm 2020 anh, chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống hằng ngày, mặc dù cha mẹ hai bên có đứng ra hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn lại được nên chị làm đơn này yêu cầu Tòa án nhân dân huyện A xem xét, giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị được ly hôn với anh Trần Văn C.

- Về con chung: Hiện con chung do anh C đang nuôi dưỡng nên khi ly hôn chị đồng ý tiếp tục giao con chung cho anh C nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Trần Văn C không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Tô Thị Thu T, mặc dù Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng đúng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Chị T: Có đơn xin yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Anh C: Vắng mặt không có lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần.

- Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, bị đơn vắng mặt không đảm bảo theo quy định tại khoản 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Tô Thị Thu T được ly hôn với anh Trần Văn C. Về con chung: Tiếp tục giao con chung là Trần Khánh D, sinh ngày 14/8/2018 cho anh Trần Văn C tiếp tục nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết do anh C không có yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định không có, anh C không có ý kiến về tài sản chung cũng như nợ chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn chị Tô Thị Thu T có đơn xin vắng mặt, bị đơn anh Trần Văn C vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh, chị trong vụ án này.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

- Xét thấy quan hệ hôn nhân của chị T và anh C là hợp pháp, được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, tỉnh K cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Hôn nhân của anh chị được xây dựng trên cơ sở mai mối nhưng có tìm hiểu nhau mới đi đến hôn nhân. Anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn.

Theo chị T nguyên nhân là bất đồng quan điểm trong cuộc sống hằng ngày, mặc dù cha mẹ hai bên có đứng ra hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả.

Anh C không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện cũng như nguyên nhân mâu thuẫn mà phía chị T đưa ra. Mặc dù, lời trình bày của chị T là đơn phương nhưng anh C không có ý kiến phản bác đối với lời trình bày này. Hơn nữa, theo biên bản ghi lời khai ngày 05/4/2022 của ông Trần Trung K (cha ruột của anh C) thì ông K xác định có nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có thông báo cho anh C biết sự việc chị T xin ly hôn. Phía anh C mặc dù đã được gia đình thông báo việc chị T xin ly hôn với anh nhưng anh vẫn không tham dự các phiên hòa giải của Tòa án để thể hiện ý kiến của mình là muốn đoàn tụ, hàn gắn mâu thuẫn hôn nhân chứng tỏ anh C không mong muốn tiếp tục duy trì hôn nhân với chị T. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân giữa chị T và anh C không thể tiếp tục kéo dài, tình trạng hôn nhân của anh, chị đã không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị T là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung, cấp dưỡng nuôi con: Chị T xác định giữa chị và anh C có 01 con chung là Trần Khánh D, sinh ngày 14/8/2018, hiện nay do anh C đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị T đồng ý tiếp tục giao con chung cho anh C nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị T và anh C ly thân cho đến nay là do anh C nuôi dưỡng con chung. Anh C không có ý kiến gì về việc chị T yêu cầu tiếp tục giao con chung cho anh C nuôi dưỡng và tiền cấp dưỡng nuôi con. Do đó để đảm bảo sự phát triển và quyền lợi của con chung nên cần tiếp tục giao con chung là Trần Khánh D, sinh ngày 14/8/2018 cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung: Anh C không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó;

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định không có. Anh C không có ý kiến tài sản chung cũng như nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[6] Xét đề nghị của Vị Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 147, 227, 228, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Các Điều 24; 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Tô Thị Thu T được ly hôn với anh Trần Văn C.

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung là Trần Khánh D, sinh ngày 14/8/2018 cho anh Trần Văn C nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó;

- Tiền cấp dưỡng nuôi con: Không giải quyết do không có yêu cầu.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết do không có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Tô Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005179 ngày 15/12/2021 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh K. Xem như chị T đã thi hành xong phần án phí.

5. Chị Tô Thị Thu T, anh Trần Văn C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh K xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 53/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:53/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;