Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 22 tháng 07 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 98/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 03 năm 2022 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2022/QĐXX-ST ngày 14 tháng 06 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 07 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Anh T, sinh năm 1991 Địa chỉ: Xóm D, xã Đông H, thị xã K, tỉnh Nghệ An

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Sái B, sinh năm 1991 Địa chỉ: Ấp C, thị trấn H, huyện Hòa B, tỉnh Bạc Liêu (Chị T có đơn xin vắng mặt, anh B vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 28 tháng 03 năm 2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Anh T trình bày: Chị và anh Nguyễn Sái B xây dựng hôn nhân gia đình vào năm 2015, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn H, huyện Hòa B, tỉnh Bạc Liêu.

Quá trình chung sống chị và anh B có 01 (một) con chung tên: Nguyễn Minh P, sinh ngày 03/7/2016. Hiện cháu P đang sống cùng với chị T.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Nguyên nhân phát sinh mâu Tẫn giữa chị và anh B là do anh B không chăm lo cuộc sống gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt và có hành vi đánh đập chị nên vợ chồng thường xuyên xung đột, cự cải nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 đến nay.

Trong thời gian sống ly thân, chị T và anh B đã dùng nhiều biện pháp để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng không thể hàn gắn được do không còn tình cảm với nhau và hiện tại, chị T không có nguyện vọng hàn gắn mối quan hệ hôn nhân với anh B.

Nay, chị Nguyễn Thị Anh T yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Sái B;

Về con chung: Yêu cầu nuôi con chung là cháu Nguyễn Minh P, sinh ngày 03/7/2016, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị T không còn có yêu cầu gì khác.

Đối với anh Nguyễn Sái B không có lời trình bày tại Toà án, đồng thời, anh B cũng không cung cấp cho Toà án tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu của chị Nguyễn Thị Anh T theo quy định của pháp luật. Tòa án cũng đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của thủ tục tố tụng dân sự cho anh B, nhưng anh B không đến Tòa án. Vì vậy, theo quy định của pháp luật nếu bị đơn không cung cấp, tài liệu, chứng cứ cũng như ý kiến của mình thì Toà án căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

* Về tố tụng: Quá trình từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung đề xuất: Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Anh T.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Minh P, sinh ngày 03/7/2016 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu. Anh B được quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra xem xét.

4. Án phí: Chị Nguyễn Thị Anh T phải nộp án phí sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Anh T khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp vể nuôi con với anh Nguyễn Sái B, nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Nguyễn Sái B có địa chỉ tại ấp C, thị trấn H, huyện Hòa B, Bạc Liêu, nên vụ án Tộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà, chị Nguyễn Thị Anh T có đơn xin vắng mặt, anh Nguyễn Sái B vắng mặt. Toà án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu đã tiến hành tống đạt hợp lệ các quyết định tố tụng dân sự cho anh B để tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án theo yêu cầu ly hôn, tranh chấp vể nuôi con giữa chị T và anh B theo quy định, nhưng anh B vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T và anh B.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về hôn nhân: Chị T và anh B xây dựng hôn nhân gia đình vào năm 2015, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn H, huyện Hòa B, tỉnh Bạc Liêu và đã được Ủy ban nhân dân thị trấn H cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 04/6/2015. Vì thế, hôn nhân giữa chị T và anh B là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T xác định: Về nguyên nhân mâu Tẫn giữa chị T và anh B là do anh B không chăm lo cuộc sống gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt và có hành vi đánh đập chị nên vợ chồng thường xuyên xung đột, cự cải nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 đến nay. Từ khi sống ly thân với nhau, chị T và anh B đã dùng nhiều biện pháp để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng không thể hàn gắn được, nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh B.

Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân muốn tồn tại bền vững thì phải dựa trên cơ sở tự nguyện; vợ chồng phải biết thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống chị T và anh B không biết tôn trọng nhau để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc mà thường xuyên cự cãi nhau, dẫn đến chị T và anh B đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 đến nay. Từ khi sống ly thân, chị T và anh B cũng đã dùng nhiều biện pháp để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng, nhưng không thể hàn gắn được. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh B, không có nguyện vọng hàn gắn mối quan hệ hôn nhân. Điều này cho thấy hôn nhân giữa chị T và anh B đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Anh T đối với anh Nguyễn Sái B.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống giữa chị T và anh B có 01 (một) con chung tên: Nguyễn Minh P, sinh ngày 03/7/2016. Hiện cháu P đang sống cùng với chị T. Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu P. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh B vắng mặt, không có ý kiến.

Hội đồng xét xử xét thấy, theo khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

2. Vợ, chồng thỏa Tận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa Tận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa Tận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Xét thấy, tại thời điểm giải quyết, cháu P trên 36 tháng tuổi nhưng chưa đủ 07 tuổi. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh B vắng mặt, không có ý kiến, đồng thời, anh B cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh chị T không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu P. Ngoài ra, chị T và anh B cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ thể hiện giữa chị T và anh B có thỏa Tận khác phù hợp với lợi ích của cháu P. Trong khi đó, cháu P hiện đang sống ổn định cùng với chị T, cháu vẫn phát triển bình thường. Vì vậy, đảm bảo sự phát triển bình thường và không làm xáo trộn môi trường sống của cháu ảnh hưởng đến sự phát triển về tâm sinh lý của cháu P, nên cần tiếp tục giao cháu P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Anh B có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[2.3] Về cấp dưỡng: Do chị T không yêu cầu anh B phải có ngh a vụ cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, chị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

[4] Từ những nhận định trên, xét đề nghị của Kiểm sát viên - đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1/- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Anh T đối với anh Nguyễn Sái B, xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Anh T và anh Nguyễn Sái B.

2/- Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Minh P, sinh ngày 03/7/2016 cho chị Nguyễn Thị Anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Nguyễn Sái B không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị Anh T không yêu cầu.

Anh Nguyễn Sái B có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/- Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị Anh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị T đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003010 ngày 28 tháng 03 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà Bình được chuyển T.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;