Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 50/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 50/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 27 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 94/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXX-ST ngày 09/7/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1995 Hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã Ch, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Chỗ ở: Tổ dân phố V, thị trấn Th, huyện H, tỉnh Bắc Giang.

2. Bị đơn: Anh Vũ Văn H1, sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn A, xã Ch, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Chị H có mặt, anh H1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn là chị Trần Thị H có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Vũ Văn H1 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Q (nay là xã Ch), huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 25/9/2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống một thời gian ngắn ở xã Ch sau đó chị H chuyển về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ của chị ở thị trấn Th, huyện H, tỉnh Bắc Giang, còn anh H1 đi làm ăn tự do nhưng thường xuyên về thăm, sống cùng chị ở Bắc Giang. Vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H1 không quan tâm đến chị và con, vay nợ bên ngoài, có thái độ không tôn trọng vợ và gia đình bên vợ. Ngoài ra vợ chồng còn không tìm được tiếng nói chung trong vấn đề lựa chọn nơi sinh sống, làm việc. Chị và anh H1 đã ly thân từ tháng 02/2021 đến nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H1.

Về con chung: Chị H xác nhận chị và anh H1 có 01 con chung là Vũ Văn H2, sinh ngày 18/01/2019. Hiện con chung đang sinh sống cùng anh H1 và ông bà nội ở thôn A, xã Ch, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho anh H1 và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Chị xác nhận đã được Tòa án giải thích rõ về quyền nuôi dưỡng con dưới 36 tháng tuổi nhưng do thu nhập của chị hiện tại không đủ để đảm bảo trực tiếp nuôi con, mặt khác anh H1 và ông bà nội đang chăm sóc con H2 rất tốt, cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường nên chị rất yên tâm giao con cho anh H1 nuôi dưỡng. Hiện tại chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: chị H trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 05/4/2021, bị đơn anh Vũ Văn H1 thể hiện quan điểm như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Trần Thị H là vợ chồng, có đăng ký kết hôn vào ngày 25/9/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Q (nay là xã Ch), huyện Q, tỉnh Thái Bình. Quá trình chung sống, vợ chồng vẫn yêu thương nhau, duy chỉ có 01 lần vào ngày 17/02/2021 (tức mồng 06 Tết) do anh có một khoản nợ ở chỗ làm nên vợ chồng xảy ra cãi nhau, anh có tát chị H 01 cái, dẫn đến cũng xô xát với bố đẻ của chị H. Ngay hôm đó, bố đẻ chị H đã đuổi anh và con chung ra khỏi nhà nên anh phải đưa con chung về nhà bố mẹ đẻ anh ở thôn A, xã Ch sinh sống từ đó đến nay. Nay chị H xin ly hôn, anh thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa có gì lớn, vợ chồng vẫn còn tình cảm với nhau nên anh không nhất trí ly hôn, đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Trường hợp chị H cương quyết ly hôn thì anh để tự chị H giải quyết ly hôn một bên.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Vũ Văn H2, sinh ngày 18/01/2019 đúng như chị H trình bày. Hiện con chung đang do anh nuôi dưỡng và sinh sống cùng ông bà nội ở thôn A, xã Ch, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Nếu trường hợp ly hôn xảy ra, anh nhận trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị H phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh đã nhận được đầy đủ các văn bản tố tụng của Tòa án giao cho anh. Do bận mải công việc nên anh đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

- Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Trần Thị H và anh Vũ Văn H1 là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại xã Ch, huyện Q nên Tòa án nhân dân huyện Q thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, vì vậy Tòa án căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung, vì vậy đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, hôn nhân của chị H, anh H1 được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn và chung sống được khoảng 01 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng đã ly thân nhau từ khoảng tháng 02 năm 2021 đến nay. Tại bản tự khai, anh H1 có quan điểm xin đoàn tụ nhưng không đưa ra được biện pháp hữu hiệu nào để giúp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã kiên trì động viên chị H suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ song chị H vẫn cương quyết xin ly hôn anh H1. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử cần xử cho chị H được ly hôn anh H1 là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị H, anh H1 có 01 con chung là Vũ Văn H2, sinh ngày 18/01/2019. Mặc dù con chung dưới 36 tháng tuổi nhưng từ khi vợ chồng ly thân con chung vẫn do anh H1 nuôi dưỡng, hiện con chung khỏe mạnh và phát triển bình thường. Bản thân chị H đã được Tòa án giải thích pháp luật đầy đủ nhưng vẫn tự nguyện, nhất trí để con chung cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Anh H1 cùng gia đình cũng có lời khai thể hiện nguyện vọng xin được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị H phải góp tiền cấp dưỡng nếu trường hợp ly hôn xảy ra. Do đó Hội đồng xét xử cần áp dụng các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung Vũ Văn H2 cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng, anh H1 không yêu cầu chị H góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh. Chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H, anh H1 đều trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị H được ly hôn anh Vũ Văn H1.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao anh Vũ Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung Vũ Văn H2, sinh ngày 18/01/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh H1 không yêu cầu chị H phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho anh H1, chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

Hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0001871 ngày 05/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Thái Bình. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

Chị Trần Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Vũ Văn H1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 50/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;