Bản án 49/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 49/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 398/2023/TLST– HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 35/2024/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 3năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Phan Thị D, sinh năm 1987; thường trú: số G tổ A, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh D, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: anh Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1994; thường trú: số G tổ A, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh D, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Phan Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị D và anh T có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn năm 2017 tại Ủy ban nhân dân phường A, thành phố D, tỉnh D.

Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng sinh sống với gia đình nhà chồng. Thời gian đầu sau kết hôn vợ chồng sống với nhau hạnh phúc cho đến năm 2019 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh T thường xuyên đánh bạc, nợ nần dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng ly thân từ tháng 10/2022 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Năm 2022, chị D nộp đơn xin ly hôn, sau đó chị D rút đơn khởi kiện để cho anh T thêm cơ hội sửa đổi nhưng anh T vẫn không thay đổi. Nay, chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T.

Về con chung: quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Hoàng Anh K, sinh ngày 06/8/2019, hiện con chung đang sinh sống cùng với chị D. Chị D yêu cầu sau ly hôn trực tiếp nuôi con. Trong đơn khởi kiện chị D yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Quá trình tố tụng chị D không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: chị Phan Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Hoàng T:

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu anh T có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị D nhưng anh T không có ý kiến, đồng thời cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ. Tòa án tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu anh T tham gia hòa giải nhưng anh T vắng mặt không có lý do, đồng thời chị D có yêu cầu từ chối hòa giải. Vì vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu anh T tham gia phiên tòa vào ngày 08/3/2024 và ngày 29/3/2024 nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Như vậy, việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị D được xem xét trên cơ sở chứng cứ do chị D cung cấp.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Quá trình tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đối với bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không chấp hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa vào ngày 08/3/2024 và ngày 29/3/2024 nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự là đúng với quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Tòa án nhân dân thành phố D nhận định:

[1] Về tố tụng: nguyên đơn chị Phan Thị D có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Hoàng T đã được triệu tập tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Phan Thị D và anh Nguyễn Hoàng T là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh D vào ngày 09/10/2017 theo giấy chứng nhận kết hôn số 86 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chị D xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn cụ thể là do anh T thường xuyên đánh bạc, dẫn đến nợ nần, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Năm 2022, chị D nộp đơn xin ly hôn, sau đó chị D rút đơn để cho anh T thêm cơ hội sửa đổi nhưng anh T vẫn tính nào tật nấy. Vợ chồng ly thân từ tháng 10/2022 cho đến nay. Nay, chị D xác định không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu ly hôn. Quá trình tố tụng, Tòa án triệu tập anh T đến Tòa án để hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng, có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị D và cung cấp chứng cứ liên quan đến vụ án nhưng anh T không đến. Điều này chứng tỏ bản thân anh T cũng không muốn vợ chồng có cơ hội để đoàn tụ với nhau, còn chị D xác định không còn tình cảm với anh T. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị D yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: quá trình chung sống anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Hoàng Anh K, sinh ngày 06/8/2019. Xét thấy, việc giao con cho ai nuôi phải bảo đảm quyền lợi của con chưa thành niên. Trong suốt quá trình tố tụng anh T không có ý kiến thể hiện nguyện vọng mong muốn nuôi con chung hay không, hơn nữa trong thời gian vợ chồng ly thân thì cháu K đều do chị D nuôi dưỡng. Do đó, chị D yêu cầu trực tiếp nuôi con chung là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về cấp dưỡng: chị Phan Thị D tự nguyện không yêu cầu anh Nguyễn Hoàng T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: chị Phan Thị D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Từ những phân tích trên có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị D. Ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Phan Thị D phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị D về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con với anh Nguyễn Hoàng T.

- Về quan hệ hôn nhân: chị Phan Thị D được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng T (Theo giấy chứng nhận kết hôn số 86 do Ủy ban nhân dân phường A, thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh D cấp ngày 09/10/2017).

- Về con chung: anh Nguyễn Hoàng T có trách nhiệm giao con chung là cháu Nguyễn Hoàng Anh K, sinh ngày 06/8/2019 cho chị Phan Thị D tiếp tục nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phan Thị D không yêu cầu anh Nguyễn Hoàng T cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, anh Nguyễn Hoàng T có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, chị Phan Thị D không có quyền cản trở anh Nguyễn Hoàng T thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: chị Phan Thị D không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Phan Thị D phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006374 ngày 15/5/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh D.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

Số hiệu:49/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;