Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 49/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 49/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24/6/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 139/2022/TLST- HNGĐ, ngày 18 tháng 4 năm 2022 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 27/5/2022; quyết định hoãn phiên tòa số 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nịnh Thị C, sinh năm 1994.

- Bị đơn: Anh La Văn T, sinh năm 1993.

Cùng địa chỉ: Thôn Y, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

(Chị C có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nịnh Thị C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nịnh Thị C và anh La Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 16/5/2014 tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn hai vợ chồng cùng làm ăn sinh sống tại thôn Y, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2015 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không chịu khó làm ăn mà thường xuyên chơi bời, rượu chè dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã khiến cho cuộc sống chung luôn trong tình trạng căng thẳng. Vợ chồng anh chị cũng sống ly thân từ năm 2021 đến nay không còn đi lại quan tâm gì đến nhau. Nay chị xác định tình cảm không còn, không thể đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh La Văn T.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có hai con chung là cháu La Trọng B, sinh ngày 03/11/2012 và cháu La Thị Ánh T, sinh ngày 06/10/2014. Hiện nay cả hai cháu đang ở cùng anh T. Khi ly hôn chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu T, còn cháu B chị muốn giao cháu cho anh T nuôi dưỡng, giáo dục. Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị C xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh La Văn T trốn tránh, không hợp tác làm việc, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không hòa giải được.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/5/2022, bà Hoàng Thị L (Bà L là mẹ đẻ của anh T) là người làm chứng trình bày:

Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống của chị C và anh T như chị C trình bày là đúng. Khoảng đầu năm 2021 giữa vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn do anh T hay uống rượu khiến vợ chồng bất hoà. Chị C và anh T cũng sống ly thân từ đầu năm 2022 đến nay. Hiện nay anh T đang đi làm ăn xa nhà, không có mặt tại địa phương thỉnh thoảng anh T mới về.

Về con chung vợ chồng anh chị có hai con chung là cháu La Trọng B, sinh ngày 03/11/2012 và cháu La Thị Ánh T, sinh ngày 06/10/2014. Hiện nay các cháu đều đang ở cùng anh T. Việc giao nuôi con chung theo bà nên để cho vợ chồng anh chị tự thỏa thuận bà không có ý kiến gì về việc chia giao con chung khi ly hôn.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nịnh Thị C, xử cho chị Nịnh Thị C được ly hôn với anh La Văn T. Về con chung giao cháu La Trọng B, sinh ngày 03/11/2012 cho anh La Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu La Thị Ánh T, sinh ngày 06/10/2014 cho chị Nịnh Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Nịnh Thị C tự nguyện chịu toàn bộ phần án phí, anh La Văn T không phải chịu án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nịnh Thị C và anh La Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Anh La Văn T và chị Nịnh Thị C đều đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn Y, xã Đông Thọ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.

[3] Anh La Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Nịnh Thị C, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú của chị C và anh T xác định: Chị C và anh T kết hôn vào năm 2014. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn Y, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian chung sống vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn dẫn đến cãi chửi nhau. Đến năm 2021 vợ chồng chị C và anh T cũng sống ly thân từ đó đến nay. Hiện nay anh T đang đi làm ăn xa nhà, thỉnh thoảng anh T mới về địa phương. Qúa trình giải quyết vụ án anh T không có ý kiến gì, không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy anh Thanh cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ.

Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị C và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị C là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung, HĐXX nhận định: Qúa trình giải quyết ly hôn chị C đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu La Thị Ánh T, sinh ngày 06/10/2014 và muốn giao cháu La Trọng B, sinh ngày 03/11/2012 cho anh La Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Bản thân cháu B và cháu T thể hiện nguyện vọng muốn được ở cùng anh T. Tuy nhiên, do hiện nay anh T đang đi làm ăn xa nhà, thỉnh thoảng mới về. Anh T và chị C đều làm nghề lao động tự do với mức thu nhập tương đương nhau. Như vậy, cần giao cho mỗi người nuôi một cháu là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 giao cháu La Trọng B, sinh ngày 03/11/2012 cho anh La Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu La Thị Ánh T, sinh ngày 06/10/2014 cho chị Nịnh Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

[6] Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị C xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Nịnh Thị C phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh La Văn T không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca y ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nịnh Thị C về việc Kiện Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với anh La Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nịnh Thị C được ly hôn với anh La Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu La Trọng B, sinh ngày 03/11/2012 cho anh La Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu La Thị Ánh T, sinh ngày 06/10/2014 cho chị Nịnh Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nịnh Thị C phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002026 ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Anh La Văn T không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 49/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:49/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;