Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 49/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 49/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 103/2022/TLST - HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 08/6/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Mang Thị T, sinh năm 1988 (có mặt).

Bị đơn: Ông Mang H, sinh năm 1988 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Mang Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Bà với ông Mang H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau 2006, có đến Ủy ban nhân dân xã P, huyện N làm thủ đăng ký kết hôn vào năm 2011.

Qúa trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, nhưng đến năm 2015 thì giữa bà với ông H xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông H không chịu lo làm ăn, mà thường xuyên tụ tập bạn bè nhậu nhẹt, mỗi khi đi nhậu về là kiếm chuyện chữi mắng, đánh đập bà, đập phá đồ đạc trong nhà, ông H còn có tính hay lăng nhăng với người phụ nữ khác. Bà đã cố gắng chịu đựng, khuyên nhủ ông H nhiều, nhưng ông H không chịu sửa đổi. Hiện bà với ông Mang H đã sống lý thân từ năm 2016 cho đến nay, không quan tâm đến nhau.

Nay bà thấy không còn tình cảm với ông Mang H, nên yêu cầu được ly hôn với ông Mang H.

Về con chung: Bà với ông Mang H sống với nhau có 01 con chung tên Mang Thị Thùy T, sinh ngày 07-7-2007, hiện con chung đang sống với bà, bà yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông Mang H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Bị đơn ông Mang H vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng:

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu ý kiến: Về thủ tục tố tụng: Thống nhất về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử (Hội đồng xét xử được viết tắt là HĐXX). Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX nghị án, đều đảm bảo đúng theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mang Thị T. Cho bà Mang Thị T được ly hôn với ông Mang H, giao con chung tên Mang Thị Thùy T, sinh ngày 07-7-2007 cho bà Mang Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, ông Mang H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Bà Mang Thị T được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án, HĐXX xác định: Quan hệ pháp luật là “Tranh chấp Ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Bị đơn hiện đang cư trú tại thôn Liên Sơn 2, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa hôm nay ông Mang H vắng mặt không có lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông Mang H.

[3]. Về nội dung vụ án:

[3.1]. Về quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa xác định được bà Mang Thị T và ông Mang H kết hôn năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N theo giấy chứng nhận kết hôn số 65 ngày 06-7-2011. Do đó, hôn nhân giữa bà Mang Thị T và ông Mang H là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà Mang Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn ông Mang H, vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gay gắt, trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng đã hết. Vì vậy, bà yêu cầu được ly hôn với ông Mang H. Đối với bị đơn ông Mang H dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ, các văn bản tố tụng nhiều lần theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vẫn cố tình không đến. Bị đơn ông Mang H vắng mặt xem như từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chứng tỏ yêu cầu khởi kiện ly hôn và lời khai của bà Mang Thị T là có căn cứ. Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Mang Thị T và ông H đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng đã hết, hiện đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Mang Thị T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2]. Về con chung: Bà Mang Thị T trình bày bà với ông Mang H sống với nhau có 01 con chung tên Mang Thị Thùy T, sinh ngày 07-7-2007, hiện con chung đang sống với bà Mang Thị T. Bà Mang Thị T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi con của bà Mang Thị T, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà Mang Thị T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc con chung cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung đã trên 07 tuổi, nguyện vọng được ở với mẹ, vì vậy phải tôn trọng nguyện vọng của con chung; nên giao con chung tên Mang Thị Thùy T, sinh ngày 07-7-2007 cho bà Mang Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng, ông Mang H không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Mang Thị T không yêu cầu, là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[3.3]. Về tài sản, nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến. [4]. Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn bà Mang Thị T thuộc diện hộ cận nghèo và cũng là đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế -xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí ly dân sự sơ thẩm.

[5]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con” của nguyên đơn bà Mang Thị T. Bà Mang Thị T được ly hôn với ông Mang H.

2. Về con chung: Giao con chung Mang Thị Thùy T, sinh ngày 07-7-2007 cho bà Mang Thị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. (Hiện con chung đang sống với bà Mang Thị T).

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Mang Thị T được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn trả lại cho bà Mang Thị T số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002405 ngày 17-3-2022 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 49/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:49/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;