Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 49/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 49/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 14 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 88/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020, về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa, số: 28/2022/ QĐST – HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1987 (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Khóm 3, thị trấn TrC, huyện Trc, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn : Anh Lê Văn B, sinh năm 1978 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp Tân Thành T, xã TH, huyện TC, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20/11/2020 và đơn đề nghị giải quyết vắng mặt gửi đến Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N trình bày:

Vào 2005 chị có xác lập quan hệ vợ chồng với anh Lê Văn B và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hòa vào tháng 01/2006. Quá trình chung sống vợ chồng chị có 02 người con chung tên Lê Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/02/2006 và Nguyễn Yến Nh, sinh ngày 04/05/2010, hiện cháu Nh đang sống chung với chị còn cháu Nh đang sống chung với anh B.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Chị Ng khai lúc đầu vợ chồng chị sống chung rất hạnh phúc được 04 năm, sau đó vợ chồng chị có nhiều mâu thuẩn không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cự cải và ngày càng trầm trọng, hai bên không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và tôn trọng nhau, mạnh ai nấy sống. Chị đã bỏ về nhà cha mẹ ruột ở Khóm 3, thị trấn TrC, huyện Trc để sinh sống và đã sống ly thân từ tháng 07 năm 2010 cho đến nay. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn B.

Về con chung: Chị Tuyết Ng yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Yến Nh, sinh ngày 04/05/2010 và chị đồng ý giao con chung Lê Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/02/2006 cho anh B tiếp tục nuôi dưỡng và chị yêu cầu hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Ng khai không có nên chị không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ sau đây: 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của chị Nguyễn Thị Tuyết N (Có đối chiếu đúng với bản gốc); 01 (một) sổ hộ khẩu gia đình do cha ruột Chị Ng là ông Nguyễn Công B làm chủ hộ, hộ khẩu mang số 0904 ngày 20/3/2019 của Công an huyện Trà C cấp (Có công chứng); 01 (một) giấy chứng nhận kết hôn (bản sao) số: 117 ngày 12/3/2018 của Ủy ban nhân dân xã Tân Hòa; 01 (một) giấy khai sinh của Lê Nguyễn Yến N và 01 (một) giấy khai sinh của Nguyễn Yến Nh (bản sao).

Đối với bị đơn anh Lê Văn B sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử lần 1 vào ngày 01/7/2022; lần 2 vào ngày 14/7/2022 hợp lệ cho anh B nhưng anh B vẫn không đến Tòa án tham gia tố tụng và Tòa án cũng không thể tiến hành lấy lời khai của anh B được nên không thể xác định được những tình tiết nào của vụ án mà các bên đã thống nhất và không thống nhất. Vì vậy Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xét xử vụ án.

Con chung Nguyễn Yến Nh, sinh ngày 04/05/2010 có ý kiến trình bày tại hồ sơ vụ án: Cha ruột cháu tên Lê Văn B và mẹ ruột cháu tên Nguyễn Thị Tuyết N nay cha mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng theo mẹ và muốn sống chung với mẹ cháu là bà Nguyễn Thị Tuyết N.

Con chung Lê Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/02/2006 có ý kiến trình bày tại hồ sơ vụ án: Cha ruột cháu tên Lê Văn B và mẹ ruột cháu tên Nguyễn Thị Tuyết N nay cha mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng theo cha và muốn sống với chung cha cháu là ông Lê Văn B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định;

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét thấy đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N xin ly hôn anh Lê Văn B nên đây là vụ kiện “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con ” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Bị đơn anh Lê Văn B có nơi cư trú rõ ràng trên địa bàn huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

Bị đơn anh Lê Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa xét xử vụ án nhưng anh B vắng mặt không có lý do, căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Lê Văn B.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết N và anh Lê Văn B xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2005 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hòa theo đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên hôn nhân của Chị Ng và anh B là hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng anh chị đã xảy ra nhiều mâu thuẫn dẫn đến anh chị sống ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Tại hồ sơ vụ án, chị Ng xác định giữa chị và anh B không còn tình cảm thương yêu, quý trọng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa anh chị đã mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nếu có duy trì thì mục đích hôn nhân cũng không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn với anh Lê Văn B.

[4] Đối với con chung: Do Chị Ng khai có hai con chung hiện nay con chung tên Nguyễn Yến Nh, sinh ngày 04/05/2010 đang sống chung với Chị Ng, còn con chung tên Lê Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/02/2006 đang sống chung với anh B. Chị Ng yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Yến Nh cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu Yến Như muốn sống chung với chị. Bởi vì từ lúc ly thân đến nay cháu Nh luôn chung sống với Chị Ng và Chị Ng không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy nên giao cháu Nh cho Chị Ng tiếp tục nuôi dưỡng cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu Nh muốn sống chung với Chị Ng. Hội đồng xét xử có giải thích về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nhưng Chị Ng không yêu cầu anh B cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với con chung Lê Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/02/2006 hiện đang chung sống anh Lê Văn B và cháu Nh cũng có nguyện vọng tiếp tục muốn sống chung với anh B, tuy không có tiếp xúc lấy lời khai của anh B để biết ý kiến về việc này, nhưng theo nguyện vọng của cháu Nh Hội đồng xét xử xét thấy nên giao cháu Nh cho anh B tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi là phù hợp với nguyện vọng của cháu Nh, vì cháu đã sống ổn định với anh B hơn 10 năm nay. Nếu sau khi ly hôn anh Lê Văn B có tranh chấp với chị Nguyễn Thị Tuyết N về việc cấp dưỡng nuôi cháu Nh thì anh Bắc được quyền khởi kiện vụ án tranh chấp yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn với chị Nguyễn Thị Tuyết Ng.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Tuyết N khai chị và anh Lê Văn B không có nợ chung và tài sản chung. Do Tòa án không thể làm việc trực tiếp với anh Lê Văn B để biết được ý kiến của anh Lê Văn B như thế nào về tài sản chung và nợ chun giữa anh Lê Văn B và chị Nguyễn Thị Tuyết N hay không. Vì vậy, nếu sau khi ly hôn anh Lê Văn B có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung với chị Nguyễn Thị Tuyết N thì anh Lê Văn B được quyền khởi kiện vụ án tranh chấp chia tài sản chung và nợ chung sau khi ly hôn với chị Nguyễn Thị Tuyết N.

[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 51, 56 , 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết N, cho chị Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn với anh Lê Văn B.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Yến Nh, sinh ngày 04/05/2010 cho Chị Ng tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi cũng là phù hợp theo nguyện vọng của cháu Nh muốn sống chung với Chị Ng. Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Ng không yêu cầu.

Giao con chung Lê Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/02/2006 cho anh B tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi cũng là phù hợp theo nguyện vọng của cháu Nh muốn sống chung với anh B. Nếu sau khi ly hôn anh B có tranh chấp với chị Nguyễn Thị Tuyết N về việc cấp dưỡng nuôi cháu Nh thì anh B được quyền khởi kiện vụ án tranh chấp yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn với chị Nguyễn Thị Tuyết N.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được ngăn cản. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Tuyết N khai không có nên Hội đồng xét xử không giải quyết. Nếu sau khi ly hôn anh Lê Văn B có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung với chị Nguyễn Thị Tuyết N thì anh Lê Văn B được quyền khởi kiện vụ án tranh chấp tài sản chung và nợ chung sau khi ly hôn với chị Nguyễn Thị Tuyết Ng.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000094 ngày 26/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiểu Cần, như vậy Chị Ng đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N, bị đơn anh Lê Văn B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 49/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:49/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;