Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 37/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ G, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 147/2022/TLST–HNGĐ, ngày 15 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp ly hôn và nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trọng C, sinh năm 1988. NKTT: Số 19, đường 26/3, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tỉnh. Chổ ở: ấp X, xã T, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)

- Bị đơn: Hứa Huyền T, sinh năm 1996. Địa chỉ: ấp X, xã T, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Hứa Yều E, sinh năm 1967 và bà Trương Thị G, sinh năm 1968. Địa chỉ: ấp X, xã T, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 4 năm 2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn trình bày:

+ Quan hệ hôn nhân: ông và bà T sống chung với nhau năm 2017 và được Ủy ban nhân dân xã T cấp giấy kết hôn ngày 18 tháng 6 năm 2018. Hai người đã ly thân vào tháng 10 năm 2018, với lý do: Khi con chung được 04 tháng tuổi thì mâu thuẫn vợ chồng ngày càng mâu thuẫn, không có tiếng nói chung nên ly thân cho đến nay. Nay ông C yêu cầu ly hôn với bà T.

+ Việc nuôi con: ông và bà T có 01 người con chung tên Nguyễn Hứa Hà M, sinh ngày 31 tháng 5 năm 2018, hiện đang sống chung với bà T cùng với cha mẹ vợ là ông Hứa Yều E và bà Trương Thị G. Ông C yêu cầu giao con cho bà T và cha mẹ vợ tiếp tục nuôi, không cấp dưỡng.

+ Chia tài sản: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn bà Hứa Huyền T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên không thể tiến hành lấy lời khai.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Hứa Yều E và bà Trương Thị G trình bày: Ông và bà là cha mẹ ruột của bà T. Hiện ông và bà đang nuôi cháu M, ông và bà đồng ý tiếp tục nuôi dưỡng theo yêu cầu của ông C và không yêu cầu cấp dưỡng - Kiểm sát viên phát biểu:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có mặt theo giấy triệu của Tòa án, vắng mặt tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải là không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 72, 73 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại các Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Trọng C xin ly hôn với bà Hứa Huyền T.

+ Về quan hệ con: Giao con chung Nguyễn Hứa Hà M cho bà Hứa Huyền T tiếp tục nuôi dưỡng và tạm miễn việc cấp dưỡng.

+ Chia tài sản: Tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên việc xét xử vắng mặt của họ là phù hợp với quy định tại các Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Quan hệ hôn nhân: Do bà T đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt và không thể tiến hành lấy lời khai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai của ông C để giải quyết theo quy định. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa ông C và bà T là hôn nhân hợp pháp. Thông qua lời khai của ông C đã chứng minh được ông và bà T ly thân khoảng thời gian dài, từ khi cháu M 04 tháng tuổi, với những lý do mà ông C đưa ra. Từ đó, cho thấy hôn nhân giữa họ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đây là căn cứ ly hôn theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu của ông C được ly hôn với bà T.

[3] Việc nuôi con:

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.” - Cháu M đang sống với bà T từ khi ly thân cho đến nay và đang phát triển bình thường, nên việc giao cho bà T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con do mình không trực tiếp nuôi, mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

- Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Về cấp dưỡng: do không phát sinh nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, trường hợp bà T có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

- Đối với ông Hứa Yều E và bà Trương Thị G là thành viên trong gia đình và hiện đang sống chung với cháu M nên ông E và bà G có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ cháu M theo quy định tại Điều 103 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Chia tài sản: Do không phát sinh nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G là phù hợp nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về án phí:

- Ông Nguyễn Trọng C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000đ, khấu trừ số tiền đã dự nộp tạm ứng theo biên lai thu tiền số 0003982 ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G.

- Bà Hứa Huyền T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, 103, 104 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Nguyễn Trọng C và bà Hứa Huyền T.

2. Việc nuôi con:

- Giao cháu Nguyễn Hứa Hà M, sinh ngày 31 tháng 5 năm 2018 cho bà Hứa Huyền T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con do mình không trực tiếp nuôi, mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

- Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Về cấp dưỡng: do không phát sinh nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, trường hợp bà T có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

- Ông Hứa Yều E và bà Trương Thị G có quyền và nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ cháu Nguyễn Hứa Hà M.

3. Chia tài sản: Do không phát sinh nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

- Ông Nguyễn Trọng C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000đ, khấu trừ số tiền đã dự nộp tạm ứng theo biên lai thu tiền số 0003982 ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G.

- Bà Hứa Huyền T không phải chịu án phí.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 37/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;