Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 35/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH – TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 35/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 04 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 08/2022/TLST-HNGĐ, ngày 05/01/2022 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 03 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2022/QĐST-DS, ngày 01/04/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Ngọc H, sinh năm 1982 (xin vắng) Địa chỉ: ấp A, xã B, Thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang

- Bị đơn: Anh Thạch Hoàng H1, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp C, xã D, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/05/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Ngọc H trình bày:

Vào năm 2017 qua quen biết nên chị và anh Thạch Hoàng H1 có tiến tới hôn nhân, có làm lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào ngày 27/11/2018 tại UBND xã D, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Trong thời gian chung sống, chúng tôi có nhau 01 con chung Thạch Ngọc T, sinh ngày 22/12/2019, hiện tại cháu đang sống chung với chị H.

Thời gian chung sống hạnh phúc kéo dài đến cuối năm 2020 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, do vợ chồng thường xuyên bất đồng ý kiến với nhau. Dù chị đã cố gắng vun đắp tình cảm vợ chồng nhưng chị nhận thấy tình cảm giữa chị với anh H1 không thể vun đắp được nên vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2020 cho đến nay.

Nay chị và anh H1 không còn tình cảm, từ đó làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt hơn, thường xuyên cự cải không thể khắc phục được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Thạch Hoàng H1.

Về con chung: Khi ly hôn chị yêu cầu nuôi cháu Thạch Ngọc T, sinh ngày 22/12/2019, không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Thạch Hoàng H1 vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ.

Ngày 02/03/2022, nguyên đơn chị Trần Ngọc H có đơn xin vắng mặt, chị có ý kiến trình bày: Chị vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn với anh Thạch Hoàng H1. Về con chung: Chị yêu cầu nuôi cháu Thạch Ngọc T, sinh ngày 22/12/2019, không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra đương sự không có yêu cầu nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn chị Trần Ngọc H khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”; bị đơn anh Thạch Hoàng H1 cư trú tại xã D, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn chị Trần Ngọc H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt; bị đơn anh Thạch Hoàng H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử thống nhất đưa vụ án ra xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về pháp luật nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Qua quen biết chị H và anh H1 có tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ngày 27/11/2018, do đó hôn nhân của chị H và anh H1 là hợp pháp và được pháp luật công nhận.

Chị Trần Ngọc H trình bày: Thời gian chung sống hạnh phúc kéo dài đến cuối năm 2020 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, do vợ chồng thường xuyên bất đồng ý kiến với nhau. Dù chị đã cố gắng vun đắp tình cảm vợ chồng nhưng chị nhận thấy tình cảm giữa chị với anh H1 không thể vun đắp được nên vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2020 cho đến nay, chị và anh H1 không còn tình cảm, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt, không thể khắc phục được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Thạch Hoàng H1.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân pH1 được xây dựng trên cơ sở tình cảm tự nguyện, có sự quan tâm, vun đắp hạnh phúc, làm tròn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, hiện tại chị H và anh H1 đã sống ly thân, không còn sống chung, chị H đã về cha mẹ chị H ở tỉnh Hậu Giang để sinh sống. Qua đó cho thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau đã vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H được ly hôn với anh H1 là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “... Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[2]. Về con chung của vợ chồng: Chị H và anh H1 có con chung là Thạch Ngọc T, sinh ngày 22/12/2019, hiện đang sống với chị H.

Xét thấy việc quyết định giao con cho người cha hoặc người mẹ nuôi dưỡng sau khi ly hôn cần phải dựa trên quyền lợi về mọi mặt của người con, về điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con....”. Chị H là người đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung; anh Thạch Hoàng H1 chưa có văn bản nêu ý kiến của mình đối với việc nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy, chị H đang chăm sóc, giáo dục con. Do đó để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển của cháu. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Trần Ngọc H là giao cháu Thạch Ngọc T, sinh ngày 22/12/2019 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

Anh Thạch Hoàng H1 được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Ngọc H chưa yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Chị Trần Ngọc H khai không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, 238, 266, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Ngọc H được ly hôn với anh Thạch Hoàng H1.

[2]. Về con chung: Giao cháu Thạch Ngọc T, sinh ngày 22/12/2019 cho chị Trần Ngọc H tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Thạch Hoàng H1 được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Ngọc H chưa yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Ngọc H khai không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Ngọc H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0010453 ngày 05/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long nên chị Trần Ngọc H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH1 thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 35/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;