Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 20/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 16 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 03/2022/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Tiết Thị U, sinh năm 1986; cư trú tại: Ấp L, xã P, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

- Bị đơn: Anh Lý Văn K, sinh năm 1987; cư trú tại: Ấp TP, xã TL, huyện PĐ, thành phố C; chỗ ở hiện nay: Ấp L, xã P, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng C.

Địa chỉ: Số xyz, LĐ, phường H, quận M, Thành phố N.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Quốc V – Chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch huyện Long Mỹ (văn bản ủy quyền ngày 19/9/2019).

Nguyên đơn có mặt; bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Tiết Thị U trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lý Văn K do quen biết và tự nguyện kết hôn năm 2005, không có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 năm thì thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống dẫn đến thường hay cự cãi. Hai bên không tìm được sự đồng cảm trong cuộc sống vợ chồng mặc dù đã tìm cách hàn gắn và động viên nhau. Hiện tại tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ năm 2021 đến nay. Vì vậy, chị yêu cầu được ly hôn với anh Lý Văn K.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là cháu Tiết Văn L (giới tính: nam), sinh ngày 03/7/2006 và cháu Tiết Thị Cẩm L (giới tính: nữ) sinh ngày 18/9/2010; hiện 02 cháu đang sống chung với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu giải quyết theo nguyện vọng của con; nếu các con muốn sống với chị thì chị nuôi và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có vay của Ngân hàng C Phòng giao dịch Long Mỹ số tiền vốn 50.000.000đ. Ngày 14/4/2022 đã thanh toán tất nợ vốn và lãi. Ngoài ra, không còn khoản nợ nào khác.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lý Văn K trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị Tiết Thị U về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Nguyên nhân mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng là do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường hay cự cãi nhưng chưa đến mức trầm trọng. Anh vẫn còn tình cảm vợ chồng với chị U nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh muốn được đoàn tụ để vợ chồng cùng lo cho con nhưng nếu hôn nhân không thể duy trì và dẫn đến ly hôn thì anh thống nhất giải quyết theo nguyện vọng của con.

Về tài sản chung: Tự tỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng C do ông Huỳnh Quốc V là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 10/8/2018 Ngân hàng C Phòng giao dịch Long Mỹ có cho vợ chồng chị Tiết Thị U vay số tiền vốn 50.000.000đ; thời hạn vay 48 tháng, lãi suất theo hợp đồng thỏa thuận là 3,3%/năm. Quá trình vay vốn đã đóng lãi đầy đủ đến tháng 2 năm 2022, chưa thanh toán tiền vốn gốc. Theo đơn yêu cầu độc lập đề ngày 11/3/2022 Ngân hàng yêu cầu vợ chồng chị U phải thanh toán nợ gốc 50.000.000đ và lãi phát sinh; tuy nhiên, đến ngày 14/4/2022 vợ chồng chị U đã thanh toán tất nợ nên Ngân hàng rút lại toàn bộ yêu cầu độc lập.

Tại phiên tòa, chị Tiết Thị U trình bày do không có đăng ký kết hôn nên yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận chị và anh Lý Văn K là vợ chồng theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Chị Tiết Thị U khẳng định mâu thuẫn giữa chị và anh Lý Văn K ngày càng trầm trọng, chị không còn tình cảm vợ chồng đối với anh Út nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Do mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Tiết Thị U và anh Lý Văn K không thể hàn gắn được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị U, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Tiết Thị U và anh Lý Văn K; đồng thời giao con chung là cháu Tiết Văn L và Tiết Thị Cẩm L cho chị Tiết Thị U nuôi dưỡng, chị U không yêu cầu anh U cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung: Chị U và anh U thống nhất tự thỏa thuận; về nợ chung: không có, yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí, buộc đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

[1]. Chị Tiết Thị U và anh Lý Văn K tự nguyện kết hôn năm 2005 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu giải quyết ly hôn, nuôi con. Xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con”. Căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

[2]. Đối với bị đơn anh Lý Văn K đã được triệu tập hợp lệ nhưng tại phiên tòa hôm nay vắng mặt không lý do. Căn cứ quy định tại Điều 227, 228, 233 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn Lý Văn K nhưng vẫn đảm bảo quyền, nghĩa vụ của đương sự theo quy định pháp luật.

[3]. Ngày 11/3/2022 Ngân hàng C có đơn yêu cầu độc lập yêu cầu chị Tiết Thị U và anh Lý Văn K phải thanh toán nợ gốc 50.000.000đ và lãi phát sinh. Đến ngày 14/4/2022 chị U đã thanh toán tất nợ; ngày 15/4/2022 Ngân hàng có đơn rút toàn bộ yêu cầu độc lập. Căn cứ Điều 217, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ yêu cầu độc lập của Ngân hàng C.

Về nội dung vụ án:

[4]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Tiết Thị U và anh Lý Văn K có tổ chức đám cưới và tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2005 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định nên không được xem là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị U và anh K phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên yêu cầu Tòa án không công nhận anh chị là vợ chồng.

Quá trình giải quyết vụ án, chị U xác định do bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng nên giữa anh chị thường hay cự cãi dẫn đến hôn nhân không hạnh phúc. Hai bên đã tìm cách hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng không thành nên đã không còn chung sống với nhau được nữa. Còn anh U cho rằng vợ chồng chỉ cự cãi nhưng mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng, anh vẫn còn thương vợ nên không đồng ý ly hôn. Căn cứ vào lời trình bày của đương sự, căn cứ vào tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, qua kết quả xác minh, có cơ sở kết luận: Quan hệ tình cảm vợ chồng giữa chị U và anh K quá trình chung sống thường hay cự cãi do bất đồng quan điểm; cuộc sống hôn nhân thật sự có mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Từ đó cho thấy, đời sống chung của vợ chồng chị U và anh K không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do chị U và anh K không có đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử thống nhất căn cứ Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị U và anh K.

[5]. Về con chung: Quá trình chung sống, anh K và chị U có 02 con chung là cháu Tiết Văn L và Tiết Thị Cẩn L; hiện đang sống chung với chị U. Khi ly hôn chị U yêu cầu giải quyết theo nguyện vọng của con. Xét ý kiến của cháu Tiết Văn L và Tiết Thị Cẩm L có nguyện vọng được sống chung với chị U. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung; để đảm bảo lợi ích, sự ổn định trong cuộc sống và sự phát triển toàn diện về tâm sinh lý của trẻ; căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử thống nhất giao 02 cháu Tiết Văn L và Tiết Thị Cẩm L cho chị U nuôi dưỡng. Chị U không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Anh U có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi về việc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[6]. Về tài sản chung: Chị U và anh K thống nhất tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[7]. Về nợ chung: Chị U và anh K xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[8]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Tiết Thị U phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Từ những nhận định nêu trên, có căn cứ chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 217, 227, 228, 233, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 14, 53, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Đình chỉ yêu cầu độc lập của Ngân hàng C.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tiết Thị U.

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Tiết Thị U và anh Lý Văn K.

2. Về con chung: Giao cháu Tiết Văn L (giới tính: nam) sinh ngày 03/7/2006 và cháu Tiết Thị Cẩm L (giới tính: nữ) sinh ngày 18/9/2010 cho chị Tiết Thị U nuôi dưỡng. Chị Tiết Thị U không yêu cầu anh Lý Văn K cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Anh Lý Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Tiết Thị U và anh Lý Văn K thống nhất tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về nợ chung: Chị Tiết Thị U và anh Lý Văn K xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

5. Về án phí: Chị Tiết Thị U phải chịu là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị Tiết Thị U đã nộp theo biên lai thu tiền số 006154 lập ngày 12/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang thành án phí.

6. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, tống đạt theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;