Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG - TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 03 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 12/2022/TB-TLVA, ngày 11 tháng 02 năm 2022 về việc tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 19/4/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2022/QĐST - HNGĐ, ngày 17/5/2022; Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử vụ án, giữa:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H, sinh năm 1995 - HKTT: Thôn P, xã T, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Nơi tạm trú: Ấp C, xã T, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang - Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Hà Văn C, sinh năm 1993 - Địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ, chị Bùi Thị H trình bày: Chị và anh Hà Văn C kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 02/10/2014 tại UBND xã N, huyện Ninh Giang. Sau khi cưới nhau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn vì anh C ham chơi bạn bè không quan tâm đến gia đình, chị đã khuyên bảo nhưng anh C không cải sửa, ngoài ra anh C có vay nợ nhiều người nên cuộc sống của vợ chồng nhiều áp lực, căng thẳng, không có hạnh phúc, đến tháng 12/2020 chị đã đi làm tự do tại tỉnh Kiên Giang, vợ chồng sống ly thân không liên quan đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Về con chung: Chị và anh C có một con là Hà Kiều V, sinh ngày 09/7/2015 hiện nay chị đang trực tiếp nuôi dưỡng, ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi con đến khi trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, vay nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Hà Văn C cố tình vắng mặt nên Tòa án không làm việc được. Theo ông Hà Văn Đ là bố đẻ của anh C cung cấp: Anh C và chị H có đăng ký kết hôn tại UBND xã N vào năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng anh C làm công nhân, ở chung cùng gia đình ông nhưng ăn riêng, không thấy mâu thuẫn gì, đến khoảng đầu năm 2020 chị H xin phép gia đình đi chơi nhà chị gái tại Phú Quốc, Kiên Giang, từ khi đi đến nay chị không về nhà, vợ chồng cũng không quan tâm đến nhau. Gia đình cũng nhiều lần khuyên chị H, anh C về chung sống nhưng không thành. Về việc chị H xin ly hôn, anh C đã nhận được tài liệu của Tòa án triệu tập nhưng không đến làm việc và không có quan điểm gì, sau đó anh đã đi làm ăn tự do không về nhà mà chỉ liên lạc với gia đình qua điện thoại, nói rằng “Việc của vợ chồng anh tự lo, chị H xin ly hôn là việc của chị ấy”. Quan điểm của ông đề nghị Tòa án phân tích hòa giải để vợ chồng anh C đòan tụ gia đình, nêú chị H kiên quyết xin ly hôn là quyền của chị H và do Tòa án quyết định. Về con chung: Chị H và anh C có một con chung là Hà Kiều V, sinh ngày 09/7/2015 do chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng, ly hôn nếu chị H xin được nuôi con và đủ điều kiện thì đề nghị Tòa án giao cho chị H nuôi dưỡng, nếu chị H không nuôi con thì gia đình xin có trách nhiệm nuôi cháu. Do anh C đi làm vắng nhà nên đề nghị Tòa án giao kết quả xét xử cho gia đình ông được biết để thông báo cho anh C.

Đại diện VKSND huyện Ninh Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã đảm bảo đúng các thủ tục tố tụng, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật, bị đơn cố tình vắng mặt không tham gia tố tụng tại Tòa án. Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 ; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự ; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015. Xử cho chị Bùi Thị H được ly hôn anh Hà Văn C. Về con chung: Xử giao con Hà Kiều V, sinh ngày 09/7/2015 cho chị Bùi Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Anh Hà Văn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Chị Bùi Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn, chị Bùi Thị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn anh Hà Văn C cố tình vắng mặt không tham gia tố tụng tại phiên tòa. HĐXX xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh C có đăng ký kết hôn ngày 02/10/2014 tại UBND xã N, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên chị H đã vào tỉnh Kiên Giang sinh sống từ đầu năm 2020 cho đến nay. Xét thấy, anh C và chị H sống ly thân đã lâu nhưng không có biện pháp nào hàn gắn, được gia đình hòa giải nhưng không thành, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy cần xử cho chị Bùi Thị H được ly hôn anh Hà Văn C theo qui định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị H và anh C có con là Hà Kiều V, sinh ngày 09/7/2015 đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Xét các chứng cứ do chị H cung cấp thể hiện chị có chỗ ở, nghề nghiệp, thu nhập ổn định, đảm bảo điều kiện nuôi con, về phía anh C hiện nay đi làm tự do không có địa chỉ, do vậy HĐXX giao con chung cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành là phù hợp. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết, HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Bùi Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 ; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị H:

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị H được ly hôn anh Hà Văn C.

Về con chung: Xử giao con Hà Kiều V, sinh ngày 09/7/2015 cho chị Bùi Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Anh Hà Văn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Bùi Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Bùi Thị H đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu số AA/2020/0000079, ngày 11/02/2022, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị H và anh Hà Văn C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;