Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 126/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 126/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 21 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 329/2022/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2022 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 82/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04/7/2022, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Phan Thị T, sinh năm 1996; thường trú: Thôn L, xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi; tạm trú: 334/25 Quốc lộ 1A, khu phố 3, phường, thành phố Đ1, thành phố Hồ Chí Minh; Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2/ Bị đơn: Anh Bùi Tấn P, sinh năm 1994; thường trú: Thôn L, xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi; tạm trú: 4/24 khu phố T, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/5/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Phan Thị T trình bày:

Chị Phan Thị T và anh Bùi Tấn P tự nguyện yêu nhau và tiến tới hôn nhân năm 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi theo giấy chứng nhận kết hôn số 01/2016 ngày 15/01/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại Dĩ An, Bình Dương.Thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, yêu thương nhau, cùng làm ăn phát triển kinh tế gia đình. Từ năm 2019, vợ chồng thường xuyên cãi vả vì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung. Hai vợ chồng đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhiều lần nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt. Hai vợ chồng hiện đã sống ly thân hơn 03 năm nay. Nay chị T xác định không còn tình cảm với anh P nên yêu cầu được ly hôn với anh P.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị Phan Thị T và anh Bùi Tấn P có 01 con chung tên Bùi Phan Anh T1, sinh ngày 22/01/2018. Sau khi ly hôn chị T sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Hiện nay chị T làm nghề tự do, thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/tháng. Do làm nghề tự do nên chị T không thể cung cấp bảng lương cho Tòa án.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Bùi Tấn P: Quá trình tố tụng, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án; Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn để làm việc, lấy lời khai; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Đồng thời, bị đơn cũng không có ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì cho Tòa án.

- Ngày 26/5/2022, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Phan Thị T và anh Bùi Tấn P tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An và được cung cấp như sau: Trước khi nộp đơn ly hôn tại Tòa án chị Phan Thị T không có đơn yêu cầu Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An tiến hành hòa giải. Đồng thời, Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh, chị. Do đó, Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An không biết rõ giữa hai anh, chị có mâu thuẫn như thế nào nên không cung cấp được thông tin cho Tòa án.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật, quan điểm giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 16/6/2022 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn đề nghị không hòa giải, do vậy vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do, Tòa án căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị T và anh Bùi Tấn P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi theo giấy chứng nhận kết hôn số 01/2016 ngày 15/01/2016 đúng với quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Chị T xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung. Hai vợ chồng đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hiện anh, chị đã sống ly thân hơn 03 năm nay. Tòa án đã xác minh tình trạng hôn nhân tại Hội liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An nhưng Hội liên hiệp phụ nữ không biết nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng chị T và anh P. Quá trình tố tụng, Tòa án đã triệu tập anh P đến Tòa án để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh P không đến, đồng thời chị T có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị Phan Thị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Bùi Phan Anh T1, sinh ngày 22/01/2018.

Xét, từ khi chị Trưng và anh P sống ly thân, cháu Thư luôn sống cùng chị Trưng, bản thân cháu Thư còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ nhiều hơn. Quá trình tố tụng, anh P không có ý kiến gì về việc chị Trưng yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giao con chung Bùi Phan Anh Thư cho chị Trưng trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của con chung.

[2.3] Về cấp dưỡng: Chị Trưng không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị Trưng nên Tòa án ghi nhận.

[2.4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[3] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về quan điểm giải quyết vụ án.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phan Thị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 207, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phan Thị T về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Bùi Tấn P.

1.1 Về hôn nhân: Chị Phan Thị T được ly hôn với anh Bùi Tấn P (Giấy chứng nhận kết hôn số 01/2016 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 15/01/2016).

1.2 Về con chung: Giao con chung tên Bùi Phan Anh Thư, sinh ngày 22/01/2018 cho chị Phan Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, chị Phan Thị T và anh Bùi Tấn P đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phan Thị T không yêu cầu anh Bùi Tấn P cấp dưỡng nuôi con.

1.4 Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phan Thị T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003863 ngày 19/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự .

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 126/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:126/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;