Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 17 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 316/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 271/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 254a/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29/12/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu X, sinh năm 2002 (có mặt). Địa chỉ cư trú: Tổ A, khóm V, thị trấn V, huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Võ Qui C, sinh năm 1992 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Khóm V, thị trấn V, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29/6/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị X trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh C tự quen biết và tìm hiểu với nhau do được bạn bè giới thiệu được khoảng 04 tháng rồi tự nguyện chung sống với nhau vào khoảng tháng 10/2020, không có tổ chức lễ cưới nhưng có đăng ký kết hôn tại UBND xã V (nay là thị trấn V) theo giấy chứng nhận kết hôn số 04/2021 ngày 06/01/2021. Từ khi sống chung với nhau, chị và anh C đi đến tỉnh B làm công nhân cho đến khi sắp sinh con thì chị mới trở về nhà cha mẹ ruột, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, do vợ chồng tính tình không còn hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh C có mối quan hệ với người phụ nữ khác, ít khi quan tâm, lo lắng trong gia đình, mọi chi phí sinh hoạt trong gia đình đều do chị tự lo, ngoài ra anh C còn ăn chơi, cờ bạc và uống rượu, chị có khuyên can nhiều lần nhưng anh C vẫn không chịu sửa đổi, vợ chồng thường xảy ra cự cãi với nhau, không còn hạnh phúc. Thời gian anh C sống chung với gia đình vợ cũng thường xảy ra cự cãi với cha vợ, từ tháng 02/2021 thì anh C bỏ nhà đi cho đến nay. Trong khoảng thời gian ly thân anh C không đến để thăm hỏi hoặc có sự quan tâm gì đến vợ và con. Gia đình hai bên cũng không hàn gắn được tình cảm giữa chị và anh C, do chị và anh C tự quyết định với nhau.

Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân có kéo dài cũng không còn hạnh phúc nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là H, sinh ngày 11/11/2020. Hiện nay cháu H đang sống cùng với chị. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Theo biên bản lấy lời khai ngày 09/11/2021, bị đơn anh C trình bày:

Anh thống nhất với chị X về điều kiện kết hôn, khoảng thời gian vợ chồng chung sống với nhau thì giữa anh và chị X không có xảy ra mâu thuẫn. Tuy nhiên, giữa anh và cha vợ có xảy ra mâu thuẫn do cha vợ yêu cầu anh phải ở nhà cha mẹ vợ (ở rể). Nay chị X yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì anh còn thương vợ, thương con, anh mong muốn vợ chồng được đoàn tụ. Do không đồng ý ly hôn nên về con chung, tài sản chung và nợ chung anh không có ý kiến.

Toà án đã mở phiên hòa giải nhưng anh C vắng mặt, không tiến hành hòa giải được, chị X cũng có đơn yêu cầu không tiếp tục hòa giải.

Tại phiên tòa:

Chị X xác định vợ chồng không có khả năng đoàn tụ với nhau, do anh C đã trở về sinh sống cùng với người vợ trước đây (chị kết hôn lần thứ nhất, còn anh C kết hôn lần thứ hai). Ngoài ra, chị có trao đổi với anh C về việc ly hôn này nhưng anh C không quan tâm. Vì vậy, chị vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung thì không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do trong quá trình giải quyết vụ án là chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị X, cho chị X được ly hôn với anh C. Về con chung: Đề nghị giao cháu H cho chị X được trực tiếp nuôi dưỡng, do chị X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Chị X, anh C không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Về án phí sơ thẩm: Đề nghị xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết:

Chị X khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về con chung đối với bị đơn anh C nên xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là "Tranh chấp ly hôn, nuôi con". Anh C có địa chỉ cư trú tại thị trấn V, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Về sự có mặt, vắng mặt của đương sự:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà lần thứ hai, không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị X và anh C tự nguyện quen nhau rồi kết hôn vào năm 2020, anh chị có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã V (nay là thị trấn V) theo quy định của pháp luật nên xét hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ sống chung, thương yêu, chung thuỷ, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên, thực tế anh C và chị X đã không còn sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và hiện nay không còn chung sống với nhau. Anh chị ly thân từ tháng 02/2021 đến nay nhưng vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay chị X yêu cầu ly hôn do mâu thuẫn trầm trọng trong cuộc sống hôn nhân và chị từ chối hoà giải. Từ đó cho thấy, chị X cương quyết trong việc yêu cầu ly hôn. Về phía anh C không đồng ý ly hôn, mong muốn vợ chồng được đoàn tụ. Tuy nhiên, những lần Toà án triệu tập đến để tham gia phiên họp công khai chứng cứ, hoà giải và phiên toà thì anh C đều vắng mặt. Điều đó cho thấy, anh C không có thiện chí mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng và không quan tâm đến yêu cầu ly hôn của chị X.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng hôn nhân giữa anh chị đã thật sự lâm vào trình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị X, cho chị X được ly hôn với anh C là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú.

[2.2] Về con chung:

Chị X và anh C có 01 (một) con chung là H, sinh ngày 11/11/2020. Xét thấy, hiện cháu H dưới 36 tháng tuổi và đang sống ổn định với chị X, chị X có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Do đó, để đảm bảo về sự phát triển mọi mặt của con, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu H cho chị X được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 58, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật:

Căn cứ vào Điều 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, anh C là người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng có quyền đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Chị X và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh C đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị X và anh C không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Do chị X là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị X phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu X.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Thu X được ly hôn với anh Võ Qui C.

Giấy chứng nhận kết hôn số 04/2021 do Uỷ ban nhân dân xã V (nay là thị trấn V), huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 06/01/2021 cho chị Nguyễn Thị Thu X và anh Võ Qui C không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Chị X được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Võ Thị Ngọc H, sinh ngày 11/11/2020.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét, giải quyết.

Chị X và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh C đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung.

Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà chị X đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003333 ngày 02 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú nên chị X không phải nộp thêm.

- Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thu X có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Võ Qui C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;