TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân Huyện Pác Nặm xét xử công khai vụ án thụ lý số: 38/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp: “Ly hôn, nôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 04/QĐST-HNGĐ ngày 08/9/2021 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị V, sinh năm 19xx. Có mặt.
* Bị đơn: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 19xx.Vắng mặt (Lần 2)
Cùng có địa chỉ tại: Thôn T, xã X, Huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Hoàng Thị V trình bày:
- Về quan hệ vợ chồng: Chị và anh Hoàng Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã X, Huyện Pác Nặm tháng 5 năm 2013. Sau khi kết hôn chúng tôi chung sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc. Mâu thuẫn phát sinh từ đầu năm 2018, chúng tôi thường xuyên cãi nhau, cuộc sống vợ chồng không hòa thuận, tình trạng mâu thuẫn ngày trầm trọng không hòa hợp về cuộc sống. Vợ chồng chị đã cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả. Vợ chồng chị đã sống ly thân năm 2018 đến nay. Chị xác định không còn tình cảm với anh H, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vì vậy tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh H.
- Về con chung: Chị và anh H có một con chung tên Hoàng Nhật N, sinh ngày xx/xx/20xx. Con chung khỏe mạnh, phát triển bình thường. Khi ly hôn nguyện vọng của chị là được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung đến khi đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, nợ chung:
+ Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
+ Về nợ chung: Vợ chồng chị không nợ ai và không cho ai nợ.
* Tại các biên bản xác minh ngày 27/7/2021 đối với Trưởng thôn T, Trưởng Công an xã X, huyện Pác Nặm và gia đình anh Hoàng Văn H đã thể hiện: Chị V và anh H có cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, sau khi lấy nhau cả hai đều đi làm ở xa và không quan tâm gì đến nhau sau đó sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Hiện nay anh H không có mặt tại địa phương, vẫn liên lạc về gia đình nhưng không cho biết địa chỉ đang ở đâu.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tiến hành triệu tập hợp lệ các văn bản như: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do nên không tiến hành hòa giải được.
* Tại phiên tòa:
- Nguyên đơn chị Hoàng Thị V trình bày ý kiến vẫn giữ nguyên yêu cầu theo đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Hoàng Văn H.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Pác Nặm tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
+ Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của pháp luật; nguyên đơn chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đúng các quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết vụ án theo luật định.
+ Về nội dung: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị V; Về án phí: Chị Hoàng Thị V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi Hội đồng xét xử thảo luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Hoàng Thị V có đơn đề nghị Tòa án nhân dân Huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn giải quyết vụ việc xin ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn anh Hoàng Văn H nhưng anh H vẫn cố tình dấu diếm địa chỉ và không có mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Nguyên đơn chị Hoàng Thị V có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải. Do vậy căn cứ vào Khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án này thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Hoàng Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và không có yêu cầu phản tố. Vì vậy, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu chị Hoàng Thị V thấy:
2.1. Về quan hệ hôn nhân: Theo lời khai của chị V, biên bản xác minh tại địa phương và gia đình xác định chị V và anh H kết hôn với nhau từ tháng 5 năm 2013, sau khi kết hôn cuộc sống chung hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian, sau đó cả hai đều đi làm ăn xa, mỗi người một nơi, không có quan tâm gì đến nhau nên đã sống ly thân từ giữa năm 2019. Điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị V và anh H đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị V.
2.2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Chị V và anh H có 01 con chung tên: Hoàng Nhật N, sinh ngày xx/xx/20xx. Con chung khỏe mạnh, phát triển bình thường. Hiện nay con chung đang ở cùng với chị V. Khi ly hôn nguyện vọng của chị là được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung đến khi đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy anh H là bố đẻ của cháu nhưng cũng thường xuyên không có mặt ở nhà nên không có khả năng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, chị V có đủ sức khỏe để lao động, có khả năng nuôi con nên yêu cầu của chị V về nuôi con chung là có căn cứ, phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con.
2.3. Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.
2.4. Về nợ chung: Chị V khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[3] Xét ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Hện Pác Nặm tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của HĐXX nên ghi nhận.
[4] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc chị Hoàng Thị V phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị V đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự Hện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các điều 147, 227, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị V đối với anh Hoàng Văn H. Chị Hoàng Thị V được ly hôn với anh Hoàng Văn H.
2. Về con chung: Giao con chung tên là Hoàng Nhật N, sinh ngày xx/xx/20xx, con chung khỏe mạnh và phát triển bình thường cho chị Hoàng Thị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về cấp dưỡng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về tài sản chung, nợ chung:
- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Chị V, anh H không nợ ai và không cho ai nợ.
5. Về án phí: Chị Hoàng Thị V phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 01292 ngày 15/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Hện Pác Nặm. Chị V đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị Hoàng Thị V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Hoàng Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 04/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 04/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Pác Nặm - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về