Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 97/2021/TLST-HNGĐ, ngày 24 tháng 02 năm 2022 về việc “Tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 04 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mã Thị Tuyết N, sinh năm 1988. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp Trung Sơn, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh G.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Tân Vọng, xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Mã Thị Tuyết N trình bày: Chị Mã Thị Tuyết N và anh Nguyễn Văn T sống chung với nhau từ năm 2019, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống N phúc, nhưng sau đó kinh tế khó khăn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng,Tờng xuyên cãi vã, tính tình không còn phù hợp, không còn tình cảm, anh chị không sống chung với nhau từ tháng 10 năm 2021, anh chị có hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Có một con chung Nguyễn Anh T, sinh ngày 06/11/2020 đang sống với chị N, sau khi ly hôn, chị N yêu cầu được nuôi con không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ chung ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Văn T trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý và đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để làm việc nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do chính đáng nên không ghi được ý kiến của anh T và không tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết là đúng theo trình tự thủ tục và thẩm quyền, trong quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án cũng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, căn cứ hồ sơ vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Mã Thị Tuyết N làm đơn yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn T có địa chỉ: Ấp Tân Vọng, xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh G. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa hôm nay, anh T đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ để dự phiên Tòa, nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn anh T.

[2] Về nội dung: Chị Mã Thị Tuyết N và anh Nguyễn Văn T sống chung với nhau từ năm 2019 và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N, Hội đồng xét xử xét thấy vợ chồng chị N và anh T chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu, sau đó đã xảy ra mâu thuẫn, cả haiTờng xuyên cãi vã, nguyên nhân do kinh tế vợ chồng khó khăn, anh, chị đã không còn sống chung từ tháng 10 năm 2021, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục hàn gắn và chung sống nên chị N yêu cầu ly hôn với anh T. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, đã tạo điều kiện cho chị N và anh T hàn gắn nhưng anh T đều không đến, điều này thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.

Về con chung: Có một con chung Nguyễn Anh T, sinh ngày 06/11/2020 đang sống với chị N, sau khi ly hôn, chị N yêu cầu được nuôi con không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu được nuôi con của chị N thì thấy: Hiện nay cháu T đang sống với chị N, được chị N chăm sóc nuôi dưỡng tốt do đó nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bìnhTờng về thể chất và tinh thần của cháu T. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị N, giao cháuT cho chị N trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy banTờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mã Thị Tuyết N .

Về quan hệ hôn nhân: Chị Mã Thị Tuyết N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 20 ngày 06/3/2020 của Ủy ban nhân dân xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh G không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Giao con chung Nguyễn Anh T, sinh ngày 06/11/2020 cho chị Mã Thị Tuyết N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh T không trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung nhưng anh được quyền đến thăm nom con chung, không ai được ngăn cản anh T thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hay việc cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Ghi nhận chị N xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh chị trong thời kỳ sống chung thì chị N và anh T vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Về án phí: Chị Mã Thị Tuyết N phải chịu án phí Hôn nhân sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0008948 ngày 24/2/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;