Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa chị H, anh H1 số 82/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 82/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON GIỮA CHỊ H, ANH H1

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 173/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2021/QĐXX-ST ngày 01/9/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2021/QĐST-HNGĐ ngày 16/9/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1983 Đăng ký HKTT: Tổ 2x, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình Địa chỉ cư trú: Thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn H1, sinh năm 1977 Địa chỉ: Tổ 2x, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Chị H có mặt, anh H1 vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình nguyên đơn chị Vũ Thị H có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về hôn nhân: Chị kết hôn với anh Phạm Văn H1 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 18/10/2011 tại Uỷ ban nhân dân thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh H1 ở tổ 2x, thị trấn A, huyện Q. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh H1 không chịu khó làm ăn, chơi bời lô đề ngoài ra anh H1 còn đánh đập chị. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng vào tháng 02/2013 chị đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở thôn V, xã A, huyện Q sinh sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay không ai quan tâm hỏi han gì đến nhau. Chị H thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị xin được ly hôn anh Phạm Văn H1.

Về con chung: Chị H xác nhận chị và anh Phạm Văn H1 có 01 con chung là Phạm Đăng Kh, sinh ngày 24/7/2012. Khi ly hôn chị xin được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh H1 phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Vì cháu Kh đang ở và học tập ổn định với chị tại gia đình chị kể từ năm 2013 cho đến nay, chị H hiện nay đang làm công nhân tại huyện C, tỉnh Hải Dương và có mức thu nhập trung bình hàng tháng là 8.000.000 đồng cho nên đủ điều kiện kinh tế để nuôi con, ngoài ra cháu Kh con được mẹ chị chăm nom giúp chị. Do đó mong muốn của chị là tiếp tục nuôi dưỡng cháu Kh. Anh H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Hiện chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H trình bày vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Phạm Văn H1 vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

- Tại biên bản xác minh với ông Phạm Văn Tr (là bố đẻ anh H1), địa chỉ: Tổ 2, thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, ông Tr trình bày: Việc kết hôn giữa chị Vũ Thị H, anh Phạm Văn H1 như chị H trình bày là đúng. Quá trình chung sống ông không thấy vợ chồng có mâu thuẫn gì với nhau, khoảng đầu năm 2013 chị H tự ý về nhà bố mẹ đẻ ở thôn V, xã A, huyện Q sinh sống. Nay chị H xin ly hôn, ông đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng được đoàn tụ, trường hợp hòa giải không thành đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật; Về con chung: Vợ chồng chị H, anh H1 có 01 con chung là Phạm Đăng Kh, sinh ngày 24/7/2012 đúng như chị H trình bày. Trường hợp vợ chồng ly hôn ông đề nghị Tòa án giao con chung cho anh H1 nuôi dưỡng và không yêu cầu chị H phải góp tiền nuôi dưỡng con chung; Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có.

Ông Tr cũng trình bày thêm anh Phạm Văn H1 vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 2x, thị trấn A, huyện Q. Hiện nay anh H1 đi làm ăn xa, địa chỉ cụ thể như thế nào ông không nắm rõ, anh H1 vẫn liên lạc về gia đình và khi gia đình có công việc anh vẫn trở về. Ông đã nhận các văn bản tố tụng mà Tòa án gửi cho anh H1 và đã thông báo đầy đủ cho anh H1 biết việc chị H xin ly hôn anh nhưng anh H1 không thể hiện quan điểm gì.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không có mặt tại phiên tòa nên không phát biểu về việc chấp hành pháp luật của bị đơn tại phiên tòa. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Vũ Thị H và anh Phạm Văn H1 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Phạm Văn H1 có địa chỉ cư trú tại thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn hiện không có mặt tại địa phương nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, không cung cấp cho nguyên đơn biết địa chỉ hiện nay ở đâu là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung và địa chỉ của bị đơn. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị H, anh H1 được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một khoảng thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng vào tháng 2/2013 chị H đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở xã A, huyện Q. Trong thời gian chị H bỏ về xã A sinh sống anh H1 không đến thăm con cũng như động viên chị H quay về sinh sống cùng anh. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, biết được việc chị H xin ly hôn nhưng anh H1 không trực tiếp đến Tòa án trình bày quan điểm hay thông qua gia đình để thể ý kiến của mình. Điều đó chứng tỏ anh H1 không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H, anh H1 đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho chị H được ly hôn anh H1 là phù hợp với Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị H, anh H1 có 01 con chung là Phạm Đăng Kh, sinh ngày 24/7/2012. Ly hôn, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh H1 phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị. Anh H1 dù biết được việc chị H xin ly hôn nhưng không thể hiện quan điểm hay ý kiến của mình về việc nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của chị H là chính đáng, hiện con chung đang ở cùng chị được chăm sóc chu đáo. Cháu Đăng Kh cũng có nguyện vọng được ở với mẹ, cháu đang học tập ổn định tại xã A. Bản thân chị H có việc làm và thu nhập nên để ổn định môi trường sống cho con chung cần giao con chung Phạm Đăng Kh cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H trình bày vợ chồng tự thỏa thuận, anh H1 không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm, các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Phạm Văn H1.

2. Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Đăng Kh, sinh ngày 24/7/2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh H1 không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, anh Phạm Văn H1 có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Chị H, anh H1 có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004459 ngày 03/8/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23 tháng 9 năm 2021). Anh Phạm Văn H1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa chị H, anh H1 số 82/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:82/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;