Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 64/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 64/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 13 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 370/2021/TLST-HNGĐ ngày 30/12/2021, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41B/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24/6/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kiều T, sinh năm 1981, vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Bị đơn: ông Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1977, vắng mặt.

Địa chỉ: ấp X, xã Y, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản không hòa giải được tại tòa, nguyên đơn bà Lê Thị Kiều T trình bày:

Bà Lê Thị Kiều T và ông Nguyễn Ngọc Q tự nguyện chung sống vợ chồng với nhau từ năm 2008, có đăng ký kết hôn, tổ chức đám cưới. Đến năm 2010 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do ông Q thường xuyên đi nhậu, không lo làm ăn, không chăm lo gia đình nên vợ chồng hay cãi nhau. Hiện nay, mặc dù vợ chồng vẫn sống cùng nhà nhưng đã sống ly thân, mặc ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai. Vợ chồng có nói chuyện hàn gắn tình cảm nhưng không được. Nay bà T nhận thấy không còn tình cảm, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và không thể chung sống với ông Q được nữa. Vì vậy bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Q.

Về con chung: Bà T và ông Q có 02 con chung là Nguyễn Lê Mỹ L, sinh ngày 24/8/2008 và Nguyễn Lê Thanh H, sinh ngày 25/5/2016. Bà T yêu cầu được nuôi cả 2 cháu cho đến khi đủ 18 tuổi và không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về ý kiến của bị đơn ông Nguyễn Ngọc Q: Trong quá trình tố tụng ông Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì.

- Theo Biên bản xác minh ngày 10/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền có nội dung như sau: Vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1977 và bà Lê Thị Kiều T, sinh năm 1981 có hộ khẩu thường trú tại Q40 tổ 14, ấp Phước Hiệp, xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và hiện nay vợ chồng ông Q, bà T vẫn đang sinh sống tại địa chỉ này cùng với 2 người con chung. Vợ chồng có mâu thuẫn nhưng ban ấp Phước Hiệp không rõ là gì.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn chưa thực hiện đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T. Về con chung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà T, giao 02 con chung là Nguyễn Lê Mỹ L, sinh ngày 24/8/2008 và Nguyễn Lê Thanh H, sinh ngày 25/5/2016 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và ông Q không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Bà T và ông Q không yêu cầu giải quyết nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ tranh chấp: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông Q tự nguyện chung sống, đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là hôn nhân hợp pháp.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: Xét thấy, sự mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa bà T, ông Q là có thật, vợ chồng không có sự đồng cảm, quan tâm, chia sẻ buồn vui cùng nhau, hiện nay vợ chồng vẫn sống chung nhà nhưng đã sống ly thân, mặc ai nấy sống, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Như vậy, quan hệ hôn nhân của bà T, ông Q là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T.

[4] Về con chung: Bà T xác nhận có 02 con chung là Nguyễn Lê Mỹ L, sinh ngày 24/8/2008 và Nguyễn Lê Thanh H, sinh ngày 25/5/2016. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi cả 2 cháu và không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cả cháu Linh có nguyện vọng ở với bà T, mặt khác ông Q không đến Tòa án giải quyết việc ly hôn với bà T nên không biết nguyện vọng của ông Q, nên chấp nhận yêu cầu của bà T, giao 2 con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T và ông Q không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bà T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51; 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kiều T.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Kiều T được ly hôn ông Nguyễn Ngọc Q.

- Về con chung: Bà T, ông Q có 2 con chung là Nguyễn Lê Mỹ L, sinh ngày 24/8/2008 và Nguyễn Lê Thanh H, sinh ngày 25/5/2016. Giao cả 2 con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi. Ông Q không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu.

Ông Nguyễn Ngọc Q được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà T và ông Q không yêu cầu giải quyết nên không xét đến.

2. Án phí: Áp dụng Nghị Quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: Bà Lê Thị Kiều T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 08657 ngày 14/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, bà T đã nộp xong.

3. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (13/7/2022) đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 64/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;