Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH L

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà L. Th. C “Ly hôn, nuôi con chung” Ng. Đ. H ; sinh năm 1992.

2. Bị đơn: Ông Ng. Đ. H; sinh năm 1990.

Cùng địa chỉ: số 334 ấp H, xã N, thành phố T, tỉnh L.

(Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 3 năm 2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Bà L. Th. C trình bày:

Bà và Ông Ng. Đ. H tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố T, tỉnh L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2014 quyển số 01/2014 ngày 11/12/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được 06 năm thì xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, gây gỗ nhau ngày càng nhiều, không thể tiếp tục chung sống được nữa, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc, không còn tình cảm với nhau. Vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2021. Nay bà thấy tình cảm không còn nên yêu cầu xin ly hôn với ông H.

Về con chung: có 03 con chung tên Ng. N. Y. V, sinh ngày 07/11/2011, Ng. Đ. Q. B, sinh ngày 18/9/2014 và Ng. N. N. Y, sinh ngày 03/3/2018. Khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung chưa thành niên Ng. N. Y. V và Ng. N. N. Y, đồng ý giao con chung Ng. Đ. Q. B cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: bà xác định bà và ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà L. Th. C có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bà xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn Ông Ng. Đ. H đã được Tòa án thực hiện việc niêm yết, tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng ông H không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ do Tòa án tổ chức, không có văn bản thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu ly hôn, nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con của bà C. Phiên tòa hôm nay, ông H cũng vắng mặt dù đã được tống đạt giấy báo hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Về ý kiến của Viện kiểm sát:

Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến phiên tòa xét xử vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Ng. Đ. H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến tham gia phiên tòa. Bà L. Th. C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt đối với bà C và ông H là đúng quy định.

Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa Bà L. Th. C và Ông Ng. Đ. H là quan hệ hôn nhân hợp pháp, do bà C và ông H có mâu thuẫn không thể hàn gắn được, bà C có yêu cầu ly hôn, yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung chưa thành niên Ng. N. Y. V và Ng. N. N. Y, đồng ý giao con chung Ng. Đ. Q. B cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Ông H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có văn bản trình bày ý kiến, điều này thể hiện ông H không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng trong khi bà C vẫn kiên quyết ly hôn. Do đó, có cơ sở xác định hôn nhân không đạt được theo qui định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận cho bà C ly hôn với ông H.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà C, giao 02 con chung chưa tên Ng. N. Y. V và Ng. N. N. Y cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung chưa thành niên Ng. Đ. Q. B cho Ông Ng. Đ. H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con do không có yêu cầu. Bà C phải chịu án phí theo qui định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà L. Th. C nộp đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với Ông Ng. Đ. H có địa chỉ cư trú ở thành phố T, tỉnh L nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập ông H đến các phiên tòa sơ thẩm nhưng ông H không chấp hành nên Tòa án xét xử vắng mặt đối với ông H là đúng theo quy định tại Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà L. Th. C và Ông Ng. Đ. H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố T, tỉnh L nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tòa án cũng đã có xác minh về quan hệ tranh chấp dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng của bà C và ông H tại UBND xã N, thành phố T, tỉnh L nơi bà C và ông H sinh sống sau khi kết hôn theo quy định tại Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng địa phương không nắm rõ nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng giữa Bà L. Th. C và Ông Ng. Đ. H. Bà C xác định vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, thường xuyên cãi vả, không còn tình cảm với nhau. Vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2021 đến nay. Xét thấy, cuộc sống vợ chồng giữa bà C và ông H không có tiếng nói chung, không có sự thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Ông H được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, được tống đạt hợp lệ, các văn bản tố tụng của Tòa án cho thấy ông H đã biết được việc bà C yêu cầu ly hôn với ông nhưng ông không có văn bản thể hiện ý kiến là muốn được đoàn tụ hoặc đưa ra những biện pháp cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, chứng tỏ rằng trong cuộc sống vợ chồng giữa bà C và ông H đã có những mâu thuẫn không giải quyết được. Xét thấy, cuộc sống hôn nhân của bà C và ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đồng thời, bản thân bà C xác định đã không còn tình cảm với ông H nên yêu cầu được chấm dứt hôn nhân. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà C là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: bà C và ông H có 03 con chung tên Ng. N. Y. V, sinh ngày 07/11/2011, Ng. Đ. Q. B, sinh ngày 18/9/2014 và Ng. N. N. Y, sinh ngày 03/3/2018. Bà C có yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung Ng. N. Y. V, Ng. N. N. Y và đồng ý giao con chung Ng. Đ. Q. B cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng khi ly hôn. Xét thấy, con chung Ng. N. Y. V, Ng. N. N. Y là bé gái, hiện đang sống chung với bà C, con chung Ng. Đ. Q. B hiện đang sống chung với Ông Ng. Đ. H, trong quá trình giải quyết vụ án ông H không có ý kiến gì về nguyện vọng được nuôi con chung. Vì vậy, để đảm bảo cuộc sống ổn định cho các con chung chưa thành niên, Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con chung Ng. N. Y. V, Ng. N. N. Y cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Ng. Đ. Q. B cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà C không có yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con và bà cũng không cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ.

[4] Về án phí: Bà C phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 300.000đ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

[1] Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Bà L. Th. C và Ông Ng. Đ. H.

[2] Về nuôi con chung:

2.1. Giao 02 con chung tên Ng. N. Y. V, sinh ngày 07/11/2011, Ng. N. N. Y, sinh ngày 03/3/2018 cho bà L. Th. C trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Ng. Đ. Q. B, sinh ngày 18/9/2014 cho ông Ng. Đ. H trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ông Ng. Đ. H và Bà L. Th. C không phải cấp dưỡng nuôi con do không có yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con được quyền yêu cầu hạn chế quyền thăm nom nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom làm ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc giáo dục con chung. Vì quyền lợi của con chung, các bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con chung cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về án phí: Bà L. Th. C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà C đã nộp theo biên lai thu số 0001433 ngày 18/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.

[4] Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;