Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 15/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp Ly hôn, nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022, quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐST- HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Long Thị X, sinh năm 1994. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã L, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở hiện nay: Xóm 3, M, thị trấn N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn K, xã L, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 03/3/2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn Long Thị X trình bày:

Chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K có quen biết nhau và yêu nhau từ đầu năm 2010, đến tháng 8 năm 2012 được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương và đăng ký kết hôn ngày 31/8/2012 tại UBND xã L, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, không bị lừa dối. Sau kết hôn vợ chồng cùng chung sống tại xã L, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi sinh con thứ hai năm 2016, anh Hoàng Văn K thường xuyên đi chơi đêm và đánh bạc nên vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn, bất hòa. Chị Long Thị X đã nhiều lần khuyên bảo chồng nhưng anh Hoàng Văn K không nghe, mỗi lần say rượu lại đuổi đánh vợ con. Từ năm 2019 chị Long Thị X đi làm công nhân ở tỉnh Bắc Giang, vợ chồng vẫn thường cãi nhau về chuyện con cái, tiền nong, không khắc phục được mâu thuẫn nên vợ chồng ly thân từ năm 2019 đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Long Thị X yêu cầu được ly hôn anh Hoàng Văn K. Về con chung: Có hai con chung tên Hoàng Thị Mỹ L, sinh ngày 03/8/2013 và Hoàng Nhật M, sinh ngày 21/01/2016. Chị Long Thị X yêu cầu được nuôi dưỡng con gái là Hoàng Thị Mỹ L, yêu cầu anh Hoàng Văn K nuôi dưỡng con trai Hoàng Nhật M, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung. Trường hợp Tòa án giao cho anh Hoàng Văn K nuôi dưỡng cả hai con thì chị Long Thị X tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng/người con cho đến khi các con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Hoàng Văn K đều vắng mặt không có lý do, không thể hiện ý kiến của mình đối với các yêu cầu của chị Long Thị X. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành xác minh các nội dung theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Long Thị X.

Tại Công văn số 52/CV-UBND ngày 12/4/2022 của UBND xã L, huyện V cung cấp thông tin: Chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K có đăng ký kết hôn ngày 31/8/2012 tại UBND xã L (trước đây là xã P), huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Sau kết hôn chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K cùng chung sống tại thôn K, xã L, huyện V. Năm 2019 chị Long Thị X đi làm công nhân tại tỉnh Bắc Giang, ít khi về thăm nhà, chỉ về thăm một lúc rồi đi. Hai con chung là Hoàng Thị Mỹ L, sinh ngày 03/8/2013 và Hoàng Nhật M, sinh ngày 21/01/2016 hiện đang sống với bố là Hoàng Văn K, hai cháu được chăm lo, ăn học đầy đủ, không bị ngược đãi, không bị bạo hành.

Tại biên bản xác minh ngày 05/5/2022, bà Lý Thị L là mẹ đẻ anh Hoàng Văn K và anh Hoàng Văn K2 là em trai anh Hoàng Văn K cho biết: Chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K kết hôn năm 2012, đến năm 2013 làm nhà ra ở riêng, sau đó bà Lý Thị L và anh Hoàng Văn K2 cũng làm nhà sát cạnh nhà chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K. Trong quá trình chung sống không thấy chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K đánh chửi nhau. Từ khi chị Long Thị X đi làm công nhân thì ít khi về nhà, thỉnh thoảng gửi quần áo và mua quà về cho các con. Nếu chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K ly hôn thì gia đình không có ý kiến gì. Riêng đối với hai con chung của chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K thì vẫn ở nhà cùng anh Hoàng Văn K và đi học tại Trường tiểu học và Trường Mầm non xã L, huyện V. Từ tháng 4/2022 anh Hoàng Văn K đi làm ở tỉnh Bắc Ninh thì hai cháu do bà Lý Thị L và anh Hoàng Văn K2 chăm sóc, đưa đón đi học. Anh Hoàng Văn K đã được nhận thông báo thụ lý vụ án, các giấy triệu tập, thông báo của Tòa án, biết được việc chị Long Thị X yêu cầu ly hôn; tuy nhiên anh Hoàng Văn K nói với bà Lý Thị L và anh Hoàng Văn K2 là tùy chị Long Thị X quyết định, nếu ly hôn thì anh Hoàng Văn K mong muốn trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con là Hoàng Thị Mỹ L và Hoàng Nhật M.

Tại biên bản lấy lời khai con chưa thành niên ngày 05/5/2022, cháu Hoàng Thị Mỹ L trình bày hiện nay cháu đang học lớp 3 Trường tiểu học xã L, huyện V và từ trước đến nay vẫn sống cùng bố Hoàng Văn K, được bố chăm sóc, cho ăn học đầy đủ. Mẹ là Long Thị X ít về thăm nhà. Nếu bố mẹ ly hôn cháu Hoàng Thị Mỹ L có nguyện vọng được sống cùng bố là Hoàng Văn K.

Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ba lần vào các ngày 18/5/2022, 27/5/2022 và 06/6/2022 để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên anh Hoàng Văn K đều vắng mặt không có lý do, không thể hiện ý kiến của mình.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi xét xử, Thẩm phán đã tiến hành tố tụng đúng trình tự thủ tục, hướng dẫn đương sự viết tự khai, lấy lời khai đương sự và con chưa thành niên, tiến hành xác minh thu thập chứng cứ, tiến hành giải thích quyền trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đương sự nhưng không ai thuộc diện được trợ giúp pháp lý, tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định. Quá trình tiến hành tố tụng tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Về quan điểm giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Long Thị X, xử cho chị Long Thị X được ly hôn anh Hoàng Văn K. Về con chung, giao cháu Hoàng Thị Mỹ L, sinh ngày 03/8/2013 và Hoàng Nhật M, sinh ngày 21/01/2016 cho anh Hoàng Văn K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con đủ 18 tuổi, chị Long Thị X có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung mỗi con 1.000.000 đồng/tháng/người con cho đến các con đủ 18 tuổi. Không xem xét giải quyết về tài sản chung, nợ chung do đương sự trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí, buộc chị Long Thị X chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn K, xã L, huyện V nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa hai lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân, xét thấy chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K có quen biết, yêu nhau, tự nguyện kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn ngày 31/8/2012 tại UBND xã L, huyện V nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K chỉ hạnh phúc thời gian đầu, phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016, nguyên nhân do anh Hoàng Văn K chơi cờ bạc, rượu chè, say rượu. Năm 2019 chị Long Thị X đi làm công nhân ở tỉnh Bắc Giang nhưng vợ chồng vẫn không thể giải quyết mâu thuẫn vợ chồng nên chị Long Thị X ít khi về thăm nhà. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ nhưng anh Hoàng Văn K đều không có mặt, không thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của chị Long Thị X, không có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng. Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Long Thị X.

[4] Về con chung: Chị Long Thị X và anh Hoàng Văn K có hai con chung tên Hoàng Thị Mỹ L, sinh ngày 03/8/2013 và Hoàng Nhật M, sinh ngày 21/01/2016. Chị Long Thị X trình bày muốn nuôi dưỡng cháu Hoàng Thị Mỹ L và đưa cháu đi theo mẹ về sống ở tỉnh Bắc Giang, thuê nhà trọ để cho con sinh sống và học tập. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay cả hai cháu Hoàng Thị Mỹ L và Hoàng Nhật M đang sinh sống, học tập ổn định tại thôn K, xã L được anh Hoàng Văn K và bà nội chăm sóc chu đáo. Chị Long Thị X hiện nay đi làm công nhân, không có chỗ ở ổn định, thường xuyên làm ca nên không có điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Cháu Hoàng Thị Mỹ L cũng có nguyện vọng được ở với bố nếu bố mẹ ly hôn nên Hội đồng xét xử thấy cần giao cháu Hoàng Thị Mỹ L và Hoàng Nhật M cho anh Hoàng Văn K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con đủ 18 tuổi. Chị Long Thị X có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết hai bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định pháp luật.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị Long Thị X trình bày tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng/tháng/người con. Anh Hoàng Văn K không có ý kiến gì về mức cấp dưỡng nuôi con.Tại công văn số 52/CV- UNBND ngày 12/4/2022 của UBND xã L cho biết mức tối thiểu để đảm bảo nuôi dạy, chăm sóc trẻ em tại địa phương trong độ tuổi của cháu Hoàng Thị Mỹ L và Hoàng Nhật M khoảng 2.000.000 đồng/tháng/người. Vì vậy, mức cấp dưỡng chị Long Thị X đề nghị là 1.000.000 đồng/tháng/người con cũng phù hợp với thực tế tại địa phương và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận. Khi cần thiết hai bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

[6] Về tài sản chung, vay nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Long Thị X là nguyên đơn có yêu cầu ly hôn và có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Long Thị X được ly hôn anh Hoàng Văn K.

2. Về con chung: Giao cháu Hoàng Thị Mỹ L, sinh ngày 03/8/2013 và cháu Hoàng Nhật M, sinh ngày 21/01/2016 cho anh Hoàng Văn K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con đủ 18 tuổi. Chị Long Thị X có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi con 1.000.000 đồng/tháng/ người con, phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời điểm cấp dưỡng kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu Hoàng Thị Mỹ L và cháu Hoàng Nhật M đủ 18 tuổi. Chị Long Thị X có quyền và nghĩa vụ đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết, hai bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, hàng tháng nếu bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án đối với số tiền cấp dưỡng nuôi con thì phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

3. Về tài sản chung, vay nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Long Thị X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con để sung ngân sách Nhà nước. Xác nhận chị Long Thị X đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0006044 ngày 31 tháng 3 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn, chị Long Thị X phải nộp tiếp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí để sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Quan - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;