Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 15 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 208/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXX-ST ngày 06/01/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1981 Nơi cư trú: thôn Q, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Đoàn Văn S, sinh năm 1977 Nơi cư trú: thôn Q, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Chị D có mặt, anh S vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn Chị Nguyễn Thị D có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Chị và anh Đoàn Văn S có tự do, tự nguyện tìm hiểu và cưới có đăng ký kết hôn ngày 29/9/1998 tại UBND xã Q, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xã Q và lao động tự do. Quá trình chung sống thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, hai bên không hợp nhau về cách sống, luôn bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng đã ly thân từ tháng 04/2021 đến nay. Chị đã về gia đình bố mẹ đẻ ở xã B, huyện H sinh sống. Nay chị xác định không còn tình cảm gì với anh S nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh S.

Về con chung: Chị và anh S có 02 con chung là cháu Đoàn Thị Vân A sinh ngày 11/11/1999 và cháu Đoàn Thị A1 sinh ngày 11/9/2006. Ly hôn chị đề nghị con Vân A đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết và đề nghị xin được nuôi con chung là cháu A1, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung. Chị rút yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Đoàn Văn S trình bày tại bản tự khai, biên bản hòa giải: Về quá trình, điều kiện kết hôn, như chị D trình bày như trên là đúng vợ chồng chung sống không có mâu thuẫn gì lớn. Nay chị D có đơn xin ly hôn anh xác nhận tình cảm vợ chồng vẫn còn đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con chung, anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Đoàn Thị Vân A sinh ngày 11/11/1999 và cháu Đoàn Thị A1 sinh ngày 11/9/2006. Ly hôn anh đề nghị con Vân A đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết, giao con A1 cho chị D nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai của cháu Đoàn Thị A1 sinh ngày 11/9/2006 thể hiện:

Cháu Đoàn Thị A1 sinh ngày 11/9/2006 là con đẻ của Chị Nguyễn Thị D và anh Đoàn Văn S. Từ khi chị D, anh S ly thân thì cháu ở cùng chị D. Hiện cháu A1 đang học lớp 10A9 trường THPT Q, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Nay chị D, anh S ly hôn thì cháu A1 có nguyện vọng ở với chị D.

- Tại biên bản xác minh với cơ sở thôn Q, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình thể hiện:

Chị Nguyễn Thị D và anh Đoàn Văn S là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q vào ngày 29/9/1998. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống tại xã Q và lao động tự do. Quá trình chung sống vợ chồng Chị D và anh S có phát sinh mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn bình thường, không nghiêm trọng. Chị D đã về sinh sống tại gia đình bố mẹ đẻ ở xã B, huyện H. Nay Chị D có đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Vợ chồng Chị D, anh S có 02 con chung là cháu Đoàn Thị Vân A sinh ngày 11/11/1999 và cháu Đoàn Thị A1 sinh ngày 11/9/2006. Ly hôn đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.

Về tài sản chung: Cơ sở thôn không nắm rõ.

- Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra, nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa Chị Nguyễn Thị D và anh Đoàn Văn S là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có địa chỉ thường trú tại xã Q, huyện Quỳnh Phụ nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn hiện có mặt tại địa phương đã nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa… nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung và địa chỉ của bị đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của Chị D, anh S được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình vào ngày 29/9/1998 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn và chung sống được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 04/2021 đến nay không hỏi han, chia sẻ với nhau. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, mặc dù biết được việc Chị D đề nghị ly hôn nhưng anh S không đồng ý ly hôn và anh cũng không có biện pháp nào để hàn gắn quan hệ hôn nhân, mỗi người sống một nơi. Như vậy có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa Chị D, anh S đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D, xử cho chị được ly hôn anh S là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Đoàn Văn S có 02 con chung là cháu Đoàn Thị Vân A sinh ngày 11/11/1999 và cháu Đoàn Thị A1 sinh ngày 11/9/2006. Ly hôn anh, chị đề nghị con Vân Anh đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết; giao con Ánh cho chị D nuôi dưỡng, anh S không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu Đoàn Thị A1cũng có nguyện vọng ở cùng chị D. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con chung của chị D là chính đáng. Kể từ khi vợ chồng ly thân, một mình chị nuôi dưỡng, chăm sóc con chung phát triển bình thường. Do đó, để đảm bảo quyền lợi tốt nhất của con chung, Hội đồng xét xử cần giao con chung Đoàn Thị A1 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Chị D không yêu cầu anh S phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị. Anh S có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị D, anh Đoàn Văn S không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Đoàn Văn S.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho Chị Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đoàn Thị A1 sinh ngày 11/9/2006 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Chị D không yêu cầu anh S phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, anh S có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung.

Hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con khi cần thiết.

3. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) Chị D đã nộp theo Biên lai thu số 0004501 ngày 18/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình được chuyển thành tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Đoàn Văn S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;