Bản án về tranh chấp ly hôn, người nuôi con số 99/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH PHƯỚC, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 99/2023/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NGƯỜI NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 189/2023/TLST-HNGĐ, ngày 21 tháng 6 năm 2023 về việc: “Tranh chấp ly hôn, người nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2023/QĐXXST- HNGĐ, ngày 11 tháng 9 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 84/QĐST- HNGĐ, ngày 26 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lâm Nữ H, sinh năm 1982 (Có mặt);

Nơi cư trú: Thôn Tân Đức, xã P, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Ông Hải Giang M, sinh năm 1979 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn Thành Đức, xã P, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Lâm Nữ H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Hải Giang M đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận theo số: 46, quyển số: I/07, ngày 29/5/2007 là hoàn toàn tự nguyện, hai bên gia đình có tổ chức cưới hỏi đầy đủ; Sau khi kết hôn thì vợ chồng về chung sống tại thôn Thành Đức, xã P, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Vợ chồng tôi chung sống không hạnh phúc do không hợp, ông M còn là người gia trưởng và ích kỷ nên chỉ sống cho riêng mình mà không quan tâm đến vợ con; Cuộc sống hàng ngày vợ chồng ít khi hỏi han chia sẻ với nhau mà mỗi người sống theo ý của riêng mình, bà đã nhiều lần ngồi lại chồng có lần còn có mặt cả cha mẹ hai bên để trao đổi nhằm tháo gỡ mâu thuẫn nhưng không có kết quả mà ngược lại càng đào sâu thêm mâu thuẫn và đến nay thì vợ chồng không còn quan tâm hỏi han nhau nữa.

Do vợ chồng mâu thuẫn kéo dài nên từ năm 2021 bà và các con dọn về nhà cha mẹ ở thôn Tân Đức, xã P còn ông M thì vẫn ở địa chỉ cũ tại thôn Thành Đức, xã P; Từ khi vợ chồng sống riêng thì hai bên không còn liên lạc gì với nhau, ông M cũng không thăm hỏi đến con cái và tự tạo lập cuộc sống riêng.

Nay bà xác định đã hết tình cảm với chồng, hạnh phúc gia đình không có và hôn nhân không có tương lai nên yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên: Hải San S, sinh ngày:

18/4/2007 và Hải Linh G, sinh ngày: 29/10/2010. Từ trước đến nay bà luôn là người trực tiếp nuôi cả 02 con chung nên nay ly hôn thì bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung. Bà có nghề giáo viên thu nhập ổn định 11.000.000đ/tháng đủ khả năng nuôi cả 02 con nên không yêu cầu ông M phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lâm Nữ H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Hải Giang M đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa nên không có lời khai.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật; Bị đơn vắng mặt mặc dù Tòa án đã thông báo và tống đạt hợp lệ nhiều lần. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Lời trình bày và kết quả tranh tụng của đương sự; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Lâm Nữ H khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn ông Hải Giang M; Yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định: Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Tranh chấp ly hôn, người nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Hải Giang M có địa chỉ thường trú tại thôn Thành Đức, xã P, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn ông Hải Giang M đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Nữ H và ông Hải Giang M tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận theo số: 46, quyển số: I/07, ngày 29/5/2007 xác định đây là hôn nhân hợp pháp.

Nguyên đơn bà Lâm Nữ H cho rằng vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau do không hợp, ông M còn có tính gia trưởng, chỉ sống cho riêng mình mà không quan tâm đến vợ con, không phụ giúp bà chăm lo cho gia đình và các con; Đến năm 2021 do vợ chồng mâu thuẫn quá nhiều nên bà và các con dọn về nhà cha mẹ ở thôn Tân Đức, xã P còn ông M thì vẫn ở địa chỉ cũ tại thôn Thành Đức, xã P từ đó hai bên không quan tâm không hỏi han nhau và tự tạo lập cuộc sống riêng, đến nay vợ chồng không còn khả năng hàn gắn hay đoàn tụ nữa. Bị đơn ông Hải Giang M không đến Tòa làm việc, không có lời khai cũng không phản đối yêu cầu của bà H; Việc vợ chồng ông M bà H mâu thuẫn được chính quyền địa phương xác nhận tại “Đơn xin xác nhận” ngày 28/8/2023 và cũng được các con của ông M bà H khai báo tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/7/2023 vì vậy Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa ông Hải Giang M và bà Lâm Nữ H là có thật. Ông Hải Giang M không có ý kiến về yêu cầu của bà Lân Nữ H chứng tỏ ông M bỏ mặc và không có thiện chí hàn gắn vợ chồng chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng ông M bà H đã thật sự trầm trọng, hơn nữa bà H vẫn kiên quyết xin ly hôn vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Lâm Nữ H.

[2.2] Về con chung: Bà Lâm Nữ H và ông Hải Giang M có 02 con chung tên Hải San S, sinh ngày: 18/4/2007 và Hải Linh G, sinh ngày: 29/10/2010; Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con, bà H có nghề giáo viên thu nhập ổn định 11.000.000đ/tháng đủ khả năng nuôi cả 02 con nên không không yêu cầu ông M phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tại biên bản lấy lời khai ngày 13/7/2023 của trẻ Hải San S và trẻ Hải Linh G có nguyện vọng được ở với mẹ nếu như ba mẹ ly hôn vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình giao cho bà Lân Nữ H là người trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung Hải San S và trẻ Hải Linh G.

[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Bà Lân Nữ H không yêu cầu ông Hải Giang M cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Bà Lâm Nữ H phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; Điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lâm Nữ H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Nữ H được ly hôn ông Hải Giang M.

2. Về con chung: Giao cho bà Lâm Nữ H có quyền và nghĩa vụ trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Hải San S, sinh ngày: 18/4/2007 và Hải Linh G, sinh ngày: 29/10/2010.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Hải Giang M không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Lâm Nữ H không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

4. Về án phí: Bà Lâm Nữ H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm; Số tiền này được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số: 0000982, ngày 20 tháng 6 năm 2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Bà Lâm Nữ H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì Người được thi hành án dân sự, Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, vắng mặt bị đơn quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, người nuôi con số 99/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:99/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Phước - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;