TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH E
BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ D VÀ ANH B1
Ngày 10 tháng 03 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh E xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 230/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST -HN ngày 07 tháng 07 năm 2022 và thông báo mở lại phiên tòa số 32/TB-TA ngày 15/02/2022 giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1990 ( Có mặt) Địa chỉ: ấp T, xã C, huyện G, tỉnh E.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B1, sinh năm 1986 (Có mặt) Địa chỉ: ấp 3, xã Đ, huyện B, tỉnh E.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/03/2021, biên bản hòa giải ngày 07/07/2021 và những lời khai tiếp theo nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc D trình bày:
Chị và anh B1 cưới nhau vào năm 2014 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đvào năm 2014. Quá trình chung sống có hạnh phúc, đến tháng 03/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cải nhau, mâu thuẫn vế tiền bạc, anh B1 không chăm lo làm ăn phát triển kinh tế gia đình, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau dẫn đến cuộc sống không có hạnh phúc. Hiện tại chị và anh B1 đã ly thân, chị sống khu công nghiệp Giao Long, anh B1 sống cha, mẹ ruột ở Định Trung. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh B1.
Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Khánh M1, sinh ngày 22/04/2015. Hiện nay cháu M1 sống với anh B1. Chị D đồng ý để anh B1 nuôi con, chị D tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng. Tại phiên tòa chị thay đổi ý kiến là chỉ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật là 745.000đồng/tháng.
Về tài sản chung: không có.
Về nợ chung: không có.
* Theo bản tự khai ngày 07/07/2021, biên bản hòa giải ngày 07/07/2021 và những lời khai tiếp theo bị đơn anh Nguyễn Văn B1 trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: anh và chị D chung sống với nhau vào năm 2014 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đvào năm 2015. Quá trình chung sống có hạnh phúc, đến tháng 03/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân không có gì lớn, có thể hàn gắn tình cản được nên anh còn thương vợ thương con nên không đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa anh thay đổi ý kiến đồng ý ly hôn với chị D, - Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Khánh M1, sinh ngày 22/04/2015. Anh B1 yêu cầu nuôi con, anh yêu cầu chị D phải chia đôi số tiền nuôi con chung hàng tháng.
- Về tài sản chung: Không có.
- Về nợ chung: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của kiểm sát viên. HĐXX nhận định:
[1] Về Hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc D và anh Nguyễn Văn B1 kết hôn vào năm 2014, được Ủy ban nhân dân xã Đcấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 11/03/2014 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống giữa anh B1 và chị D thời gian đầu có hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm tính tình hai bên không hòa hợp, vợ chồng thường hay cự cãi nhau về kinh tế gia đình, từ đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 2020 cho đến nay. Hiện tại chị và anh B1 đã ly thân, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau cho thấy hôn nhân giữa chị D và anh B1 đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc D đối với anh Nguyễn Văn B1 là phù hợp, tại tòa anh B1 đống ý ly hôn với chị D nên công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc D đối với anh Nguyễn Văn B1 theo Điều 55 luật hôn nhân và gia đình 2014.
[2] Về con chung: có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Khánh M1, sinh ngày 22/04/2015. Hội đồng xét xử xét thấy: từ khi ly thân cho đến nay cháu My sống với anh B1 nên để đảm bảo được quyền và lợi ích của con chung, cần giao con chung cho anh B1 tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng dưỡng nuôi con theo quy định Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể, buộc chị D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chó anh B1 mỗi tháng là 745.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) cho đến khi con chung tròn 18 tuổi.
[3] Về tài sản chung: chị D, anh B1 khai không có nên không xét đến. [4] Về nợ chung: chị D, anh B1 khai không có nên không xét đến.
[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: nguyên đơn chị D phải chịu án phí là 300.000đ. Về án phí cấp dưỡng nuôi con chị D phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006423 ngày 26/05/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh E. Chị D cón phải nộp tiếp tiền án phí là 300.000đồng .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 55, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ các Điều 228, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấm nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc D đối với anh Nguyễn Văn B1. Quan hệ hôn nhân của chị D, anh B1 chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung: Giao con là Nguyễn Ngọc Khánh M1, sinh ngày 22/04/2015 cho anh Nguyễn Văn B1 tiếp tục nuôi dưỡng.
Ghi nhận việc chị Nguyễn Thị Ngọc D tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Nguyễn Văn B1 mỗi tháng là 2.000.000 đồng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng bắt đầu khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Chị D không trực tiếp nuôi con chung được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.
Anh B1 trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở chị D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 và Điều 119 của luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: chị D, anh B1 khai không có nên không xét đến.
4. Về nợ chung: chị D, anh B1 khai không có nên không xét đến.
5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc D phải chịu án phí là 300.000đ. Về án phí cấp dưỡng nuôi con chị D phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Tổng án phí chị Nguyễn Thị Ngọc D phải chịu án phí là 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006423 ngày 26/05/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh E. Chị D còn phải nộp tiếp tiền án phí là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc D, bị đơn Nguyễn Văn B1 có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp ly hôn giữa chị D và anh B1 số 14/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 14/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về