Bản án về tranh chấp ly hôn, chia tài sản khi ly hôn số 39/2024/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 39/2024/HNGĐ-PT NGÀY 11/04/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 11 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 85/2023/TLPT-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp ly hôn, chia tài sản khi ly hôn”.

Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 658/2023/HNGĐ-ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng nghị và kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 475/2024/QĐPT-HNGĐ ngày 29 tháng 02 năm 2024 và quyết định hoãn phiên tòa thẩm số 3551/2024/QĐPT-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc T, sinh năm 1954 Địa chỉ: 6 đường số C, khu phố D, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của ông T đối với yêu cầu chia tài sản chung: Bà Vũ Thị H, sinh năm 1974 Địa chỉ: B Đại lộ H, Tổ H, khu B, phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. (Giấy ủy quyền ngày 22/4/2021 tại Văn phòng C, Thành phố Hồ Chí Minh) Bị đơn: Bà Trần Thị H1, sinh năm 1964 Địa chỉ: 3 L, Phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà H1 đối với yêu cầu chia tài sản chung: Ông Lê Huy H2, sinh năm 1982. (Giấy ủy quyền ngày 19/7/2023 tại Văn phòng C1, Đồng Nai) Địa chỉ: Đường B khu H, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Trần Thanh P, sinh năm 1991

- Bà Nguyễn Trần Minh P1, sinh năm 1993

- Trẻ Huỳnh Nguyễn Hoàng A, sinh 2018 do bà Nguyễn Trần Thanh P là người đại diện hợp pháp

- Trẻ Nguyễn Nhật M, sinh 2016, do bà Nguyễn Trần Minh P1 là người đại diện hợp pháp.

Cùng cư trú tại: 3 L, Phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình kháng nghị:

Quyết định kháng nghị số 05/QĐ-VKS-DS ngày 03/8/2023 đối với bản án số 658/2023/DS-ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình;

- Người kháng cáo:

Bà Vũ Thị H là đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Quốc T về yêu cầu chia tài sản chung;

Ông Lê Huy H2 là đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị H1 về yêu cầu chia tài sản chung

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông Nguyên Quốc T trình bày:

Ông và bà Trần Thị H1 chung sống với nhau từ năm 1982, đến năm 2009 đăng ký kết hôn trễ tại Ủy ban nhân dân Phường E, quận T theo giấy chứng nhận kết hôn số 101 ngày 04/8/2009. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn về nhận thức, hành xử, đã nhờ gia đình nội ngoại hai bên khuyên nhủ nhưng mâu thuẫn không giảm, dẫn đến xúc phạm lẫn nhau. Mâu thuẫn trở nên nặng nề từ năm 2011, cuộc sống chung chỉ là chịu đựng lẫn nhau. Sau đó, trong thời gian ông bị bệnh tim, phải nhập viện phẫu thuật nhưng phải tự một mình xoay xở mượn tiền để điều trị mà không có sự quan tâm, chăm sóc của bà H1. Cả hai đã sống ly thân từ năm 2011 đến nay. Ông nhận thấy vợ chồng không còn tình nghĩa với nhau nên yêu cầu được ly hôn với bà H1.

Về con chung: Ông và bà H1 có 02 con chung tên Nguyễn Trần Thanh P, sinh năm 1991 và Nguyễn Trần Minh P1, sinh năm 1993. Hai con chung đã thành niên, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Ông T khai ông và bà H1 có các tài sản chung như sau: Căn nhà số C L, Phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh do ông và bà H1 đứng tên sở hữu theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 2068/UB.GCN ngày 27/6/2007 do Ủy ban nhân dân quận T cấp; thửa đất số 623 tờ bản đồ 103 tại xã B, huyện H. Ông T yêu cầu chia cho bà H1 nhà đất tại địa chỉ 3 L, Phường E, quận T, chia cho ông thửa đất số 623 tờ bản đồ 103 tại xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại các biên bản không tiến hành hòa giải được, ông T và người đại diện hợp pháp là bà Vũ Thị H trình bày: Ông T và bà H1 có tài sản chung là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ 3 L, Phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, ông T đồng ý giao cho bà H1 được quyền sở hữu toàn bộ nhà đất này. Đối với thửa đất số 623 tờ bản đồ 103 tại xã B, huyện H do chị của ông T là bà Nguyễn Thị Minh Tân t cho ông T nên ông T được toàn quyền sử dụng đất này, ông và bà H1 không ai phải trả tiền chênh lệch cho ai. Bà H1 cho rằng ông không có thu nhập là không đúng vì thời gian vợ chồng chung sống ông vẫn đi làm rất nhiều công việc bên ngoài, vợ chồng gom góp và mượn thêm tiền của người quen để mua nhà, sau đó cùng nhau làm lụng để trả hết nợ mua nhà, đất.

Về nợ chung: Ông T khai không có.

* Bị đơn bà Trần Thị H1 trình bày: Bà và ông T chung sống từ năm 1985, đến năm 2009 đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, ông T nhiều lần chửi, đánh bà. Hai bên sống ly thân từ năm 2013. Bà H1 cảm thấy không thể sống chung với ông T được nữa nên đồng ý ly hôn.

Về con chung: Bà H1 khai bà và ông T có hai con chung tên Nguyễn Trần Thanh P, sinh năm 1991 và Nguyễn Trần Minh P1, sinh năm 1993. Các con chung đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung: Bà H1 khai bà và ông T có thửa đất ở H thuộc tờ bản đồ 103, thửa 623. Đất này bà nhờ chị của ông T là bà Nguyễn Thị Minh T1 đứng tên, đề nghị chia cho ông T 1/4 thửa đất này. Bà H1 khai có nợ chung và nợ riêng nhưng không trình bày cụ thể các khoản nợ này. Sau đó, tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải bà H1 và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà H1 là luật sư Lê Huy H2 đều vắng mặt và không có ý kiến trình bày.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Trần Thanh P (đồng thời là người đại diện hợp pháp cho trẻ Huỳnh Nguyễn Hoàng A), bà Nguyễn Trần Minh P1 (đồng thời là người đại diện hợp pháp cho trẻ Nguyễn Nhật M) là con của ông T, bà H1, hiện đang cư trú tại nhà 3 L, Phường E, quận T. Bà Thanh P và bà Minh P1 vắng mặt tất cả các lần Tòa án triệu tập để tự khai, triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Bà Thanh P và bà Minh P1 không có ý kiến trình bày hay yêu cầu gì trong vụ án.

Ngày 27/6/2023 Tòa án nhận được đơn xác nhận yêu cầu khởi kiện đề ngày 23/6/2023 của ông T. Ông T yêu cầu chia đôi tài sản chung là căn nhà 3 L, Phường E, quận T. Đối với thửa đất 623 tại xã B, huyện H là tài sản riêng của ông T.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm 658/2023/HNGĐ-ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, đã quyết định:

“...

I. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn - ông Nguyễn Quốc T:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Quốc T được ly hôn với bà Trần Thị H1.

2. Về con chung: Có hai con chung tên Nguyễn Trần Thanh P, sinh năm 1991 và Nguyễn Trần Minh P1, sinh năm 1993. Cả hai con chung đã thành niên, không yêu cầu giải quyết.

3. Về tài sản chung:

3.1 Xác định nhà và đất tọa lạc tại số C L, Phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 2068/UB.GCN do Ủy ban nhân dân quận T cấp ngày 27/6/2007) là tài sản chung của ông Nguyễn Quốc T và bà Trần Thị H1.

3.1.1 Ông Nguyễn Quốc T được chia 40%, bà Trần Thị H1 được chia 60% giá trị tài sản chung nêu trên.

3.1.2 Giao cho bà Trần Thị H1 được quyền sở hữu, sử dụng nhà đất tọa lạc tại địa chỉ 3 L, Phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 2068/UB.GCN do Ủy ban nhân dân quận T cấp ngày 27/6/2007 và được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để tiến hành thủ tục cấp đổi lại giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với nhà đất nêu trên cho cá nhân bà Trần Thị H1 theo quy định của pháp luật.

3.1.3 Bà Trần Thị H1 phải hoàn trả cho ông Nguyễn Quốc T 40% giá trị tài sản được giao tại mục 3.1.2 là: 1.715.469.686 (một tỷ bảy trăm mười lăm triệu bốn trăm sáu mươi chín ngàn sáu trăm tám mươi sáu) đồng.

3.2 Xác định quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 623, tờ bản đồ số 103 tại xã B, huyện H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CH00782 do Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/6/2015 là tài sản chung của ông Nguyễn Quốc T và bà Trần Thị H1.

3.2.1 Ông Nguyễn Quốc T được chia 50%, bà Trần Thị H1 được chia 50% giá trị tài sản chung nêu trên.

3.2.2 Giao ông Nguyễn Quốc T được quyền sử dụng thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 tại xã B, huyện H, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào so CH00782 do Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/6/2015.

3.2.3 Ông Nguyễn Quốc T phải hoàn trả cho bà Trần Thị H1 50% giá trị tài sản được giao tại mục 3.2.2 là: 3.620.000.000 (ba tỷ sáu trăm hai mươi triệu) đồng.

3.3 Sau khi cấn trừ khoản tiền bà Trần Thị H1 phải hoàn trả cho ông Nguyễn Quốc T [1.715.469.686 (một tỷ bảy trăm mười lăm triệu bốn trăm sáu mươi chín ngàn sáu trăm tám mươi sáu) đồng tại mục 3.1.3] vào khoản tiền ông Nguyễn Quốc T phải hoàn trả cho bà Trần Thị H1 [3.620.000.000 (ba tỷ sáu trăm hai mươi triệu) đồng tại mục 3.2.3] thì ông Nguyễn Quốc T còn phải hoàn trả cho bà Trần Thị Hằng S tiền 1.904.530.314 (một tỷ chín trăm lẻ bốn triệu năm trăm ba mươi ngàn ba trăm mười bốn) đồng.

Ngay khi ông Nguyễn Quốc T hoàn trả xong cho bà Trần Thị Hằng S tiền nêu trên thì bà Trần Thị H1 có trách nhiệm bàn giao lại cho ông Nguyễn Quốc T bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CH00782 do Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/6/2015 đối với thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 tại xã B, huyện H. Trường hợp ông T đã hoàn trả đủ tiền mà bà H1 không tự nguyện bàn giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên thì ông T có quyền liên hệ cơ quan cấp giấy chứng nhận có thẩm quyền để được xin cấp lại giấy chứng nhận mới và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CH00782 do Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/6/2015 không còn giá trị.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án chậm thực hiện việc thanh toán tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Về nợ chung: Tách ra và dành quyền cho các đương sự khởi kiện bằng vụ án khác nếu có yêu cầu....” Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo, thi hành án.

Ngày 03/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình kháng nghị đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm theo hướng triệu tập ông Cao Thanh P2 và bà Nguyễn Thị Minh T2 tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng; sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 04/8/2023, bà Vũ Thị H là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Quốc T về phần tài sản kháng cáo yêu cầu chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc T.

Ngày 26/7/2023, ông Lê Huy H2 là người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị H1 về phần tài sản kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm hoặc không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc T.

Tại phiên tòa phúc thm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần quyết định kháng nghị đối với nội dung triệu tập ông Cao Thanh P2 và bà Nguyễn Thị Minh T1 tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng;

Bà Vũ Thị H trình bày: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị công nhận thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 tại xã B, huyện H là tài sản riêng của ông Nguyễn Quốc T;

Ông Lê Huy H2 trình bày: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị hủy án sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; hoặc không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Quốc T; công nhận căn nhà 3 L, phường E, quận T và công nhận thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 tại xã B, huyện H là tài sản riêng của bà Trần Thị H1.

Đại diện Viện kim sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thời hạn kháng nghị, kháng cáo: đúng thời hạn luật định.

Về nội dung: đề nghị chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình và chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Quốc T theo hướng công nhận thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 tại xã B, huyện H là tài sản riêng của ông Nguyễn Quốc T, có được từ hợp đồng tặng cho số 027643 ngày 02/7/2011; không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị H1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình; đơn kháng cáo của bà Vũ Thị H là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và đơn kháng cáo của ông Lê Huy H2 là đại diện theo ủy quyền của bị đơn làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm;

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần quyết định kháng nghị đối với nội dung triệu tập ông Cao Thanh P2 và bà Nguyễn Thị Minh T1 tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử đối với việc rút một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình và kháng cáo của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về tố tụng:

[2.1] Theo các tài liệu chứng cứ do bị đơn bà Trần Thị H1 cung cấp có trong hồ sơ vụ án, thể hiện người chuyển nhượng thửa đất tại xã B, huyện H cho vợ chồng bà, cụ thể :

- Giấy nhận tiền bà H1 nộp cho Tòa án ngày 7/9/2022 tại bút lục số 340 thể hiện người nhận ngày 22/11/1999 tên Cao Thanh P2, tuy nhiên cũng tại bút lục này ở góc trái có nội dung tái xác nhận ngày 5/9/2022 ký tên xác nhận là Cao Văn P3;

- Đơn đề nghị phân chia tài sản đất đai ngày 7/9/2022 của bà Trần Thị H1 tại bút lục 303 thể hiện miếng đất này bà H1 mua từ chú Cao Phú T3.

Xét thấy, các tài liệu chứng cứ này thể hiện cùng nội dung liên quan đến thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 (theo tài liệu cũ là thửa 909 tờ bản đồ số 03) xã B, huyện H nhưng có đến 03 người chuyển nhượng là ông Cao Thanh P2, Cao Văn P3 và Cao Phú T3. Cấp sơ thẩm chưa làm rõ 03 người chuyển nhượng này là 01 người hay 03 người khác nhau và việc nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất là cá nhân hay đại diện Công ty.

[2.2] Đối với bà Nguyễn Thị Minh T1 là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 (theo tài liệu cũ là thửa 909 tờ bản đồ số 03) xã B, huyện H theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 38/QSDĐ/BĐ/1B do UBND huyện H cấp ngày 08/11/2000. Sau đó, bà Nguyễn Thị Minh Tân t cho thửa đất này cho ông Nguyễn Quốc T và đã được cấp đổi thành giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00782 do UBND huyện H cấp ngày 17/6/2015.

Theo bà Trần Thị H1 trình bày thửa đất này là tài sản chung của vợ chồng được mua như các chứng cứ nêu trên nhưng nhờ bà Nguyễn Thị Minh T1 đứng tên dùm trên giấy chứng nhận. Đối với ông Nguyễn Quốc T trình bày thửa đất là tài sản riêng do được nhận tặng cho từ bà Nguyễn Thị Minh T1.

Xét thấy, thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 (theo tài liệu cũ là thửa 909 tờ bản đồ số 03) xã B, huyện H là đối tượng tranh chấp trong vụ án giữa ông Nguyễn Quốc T và bà Trần Thị H1, một bên đương sự trình bày nhờ bà Nguyễn Thị Minh T1 đứng tên dùm trên giấy chứng nhận, một bên đương sự phủ nhận; cấp sơ thẩm đã Quyết định xác định thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 (theo tài liệu cũ là thửa 909 tờ bản đồ số 03) xã B, huyện H là tài sản chung của vợ chồng ông Nguyễn Quốc T, bà Trần Thị H1 và chia đôi là vi phạm thủ tục tố tụng bởi lẽ;

Cấp sơ thẩm cần thiết phải đưa bà Nguyễn Thị Minh T1 vào tham gia tố tụng để làm rõ các vấn đề sau:

- Bà Nguyễn Thị Minh T1 là người sử dụng đất đối với thửa đất số 623 tờ bản đồ số 103 (theo tài liệu cũ là thửa 909 tờ bản đồ số 03) xã B, huyện H hay bà Nguyễn Thị Minh T1 đứng tên dùm cho vợ chồng ông Nguyễn Quốc T, bà Trần Thị H1 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Bà Nguyễn Thị Minh Tân t cho quyền sử dụng đất đối với số 623 tờ bản đồ số 103 (theo tài liệu cũ là thửa 909 tờ bản đồ số 03) xã B, huyện H cho ông Nguyễn Quốc T là tặng cho riêng ông Nguyễn Quốc T hay tặng cho vợ chồng ông Nguyễn Quốc T, bà Trần Thị H1 hay tặng cho ông Nguyễn Quốc T nhằm mục đích trả lại quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Quốc T, bà Trần Thị H1 do đứng tên dùm trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 38/QSDĐ/BĐ/1B do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 08/11/2000; tại thời điểm bà TI được cấp giấy chứng nhận thì bà T1 có chồng hay không; quyền sử dụng đất tặng cho là tài sản riêng của bà Nguyễn Thị Minh T1 hay tài sản chung của vợ chồng bà Nguyễn Thị Minh T1.

Từ đó xác định tư cách tham gia tố tụng của bà Nguyễn Thị Minh T1 và chồng bà Nguyễn Thị Minh T1 (nếu có) là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hay người làm chứng trong vụ án.

[2.3] Lời khai của ông Nguyễn Quốc T và bà Trần Thị H1 đối với căn nhà 3 L, phường E, quận T có mâu thuẫn về số vàng mua căn nhà này là do cha mẹ bà H1 cho riêng bà H1 hay cho vợ chồng bà H1 mượn, cấp sơ thẩm không đưa cha mẹ bà H1 vào tham gia tố tụng để làm rõ. về chiếc xe Dream ông T giao cho ai bên gia đình bà H1, mục đích giao cũng chưa được cấp sơ thẩm làm rõ, cấp phúc thẩm không thể bổ sung;

Hội đồng xét xử xét thấy việc thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể bổ sung được nên cần thiết phải hủy một phần bản án sơ thẩm về phần tài sản.

[3] Với những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình; không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Quốc T; chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị H1 và hủy một phần bản án sơ thẩm về tài sản.

[4] Về án phí: Do hủy một phần bản án sơ thẩm nên các đương sự không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm. H3 lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho bà Trần Thị H1.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 148; Khoản 3 Điều 289; khoản 3 Điều 308 và Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.

1. Đình chỉ một phần quyết định kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Bình về việc triệu tập ông Cao Thanh P2 và bà Nguyễn Thị Minh T1 tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng;

2. Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đối với đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc T, xác định thửa đất số 623 tờ bản đồ 103 tại Xã B, H là tài sản riêng của ông Nguyễn Quốc T;

3. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Quốc T;

4. Chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị H1:

4.1. Giữ nguyên một phần Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 658/2023/HNGĐ-ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, cụ thể:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Quốc T:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Quốc T được ly hôn bà Trần Thị H1.

- Về con chung: Có hai con chung tên Nguyễn Trần Thanh P, sinh năm 1991 và Nguyễn Trần Minh P1, sinh năm 1993. Cả hai con chung đã thành niên, không yêu cầu giải quyết.

4.2 Hủy một phần bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 658/2023/HNGĐ-ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình về phần tài sản;

Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

5. Nguyên đơn và bị đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Hoàn lại 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm cho bà Trần Thị H1 theo biên lai thu tiền số AA/2023/0023494 ngày 18/8/2023 của Chị cục Thi hành án Dân sự quận Tân Bình;

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, chia tài sản khi ly hôn số 39/2024/HNGĐ-PT

Số hiệu:39/2024/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;