Bản án về tranh chấp lao động tiền lương số 72/2023/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 72/2023/LĐ-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG

Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 13/2023/TLST-LĐ ngày 10 tháng 4 năm 2023 về việc “Tranh chấp lao động về tiền lương” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 745/2023/QĐXX-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 936/2023/QĐST-LĐ ngày 30 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Ánh T, sinh năm: 1986 Địa chỉ: G ấp B, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) 2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn C Địa chỉ: A Đường D, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Văn N, sinh năm 1987, địa chỉ: A Đường D, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, là đại diện theo pháp luật.

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, các bên đương sự trình bày:

* Về nội dung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Trong đơn khởi kiện ngày 03 tháng 4 năm 2023 và đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện để ngày 30 tháng 5 năm 2023 cùng lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày như sau:

Bà Huỳnh Thị Ánh T làm việc cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn C (Sau đây gọi tắt là công ty) từ ngày 30/5/2022. Công việc chính của bà là kế toán, mức lương 9.900.000 đồng. Hiện nay, công ty còn nợ bà tiền lương của bà.

Tại đơn khởi kiện ngày 03/4/2023, bà yêu cầu công ty trả cho bà tiền lương tháng 01/2023, tháng 02/2023 và tháng 3/2023 với số tiền tổng cộng là 20.561.000 đồng. Ngày 30/5/2023, bà có đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện. Bà xác định chỉ yêu cầu công ty trả cho bà tiền lương của tháng 01/2023, tháng 02/2023 và một nửa tháng 03/2023 (2,5 tháng) trên mức lương 6.500.000 đồng/tháng, tổng số tiền là 16.250.000 đồng.

* Về ý kiến, đề nghị của bị đơn:

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không cử đại diện đến tòa cũng không gửi văn bản trả lời về nội dung đơn kiện mặc dù đã được Tòa án nhân dân Quận 12 tống đạt thông báo thụ lý và triệu tập đến tòa để giải quyết vụ kiện.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 12 tham gia phiên tòa có ý kiến như sau:

Về thủ tục tố tụng: Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền. Việc tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Ngoài ra còn nhận xét về việc tham gia tố tụng của các đương sự. Viện kiểm sát có kiến nghị khắc phục thời hạn đưa vụ án ra xét xử.

Về nội dung: Hiện nay bị đơn chưa trả lương những ngày làm việc của tháng 01/2023, tháng 02/2023 và một nửa tháng 03/2023 cho nguyên đơn, bị đơn không phản đối các yêu cầu của nguyên đơn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền lương còn thiếu trong quan hệ lao động nên đây là "Tranh chấp lao động về tiền lương". Bị đơn có trụ sở tại Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về điều kiện khởi kiện: Tranh chấp nói trên đã thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động theo "Biên bản Hòa giải tranh chấp lao động ngày 27/3/2023" của Phòng I. Nguyên đơn đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 188 của Bộ luật lao động năm 2019, khoản 1 Điều 32 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do nên theo quy định tại các điểm a và b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[4] Về yêu cầu của các đương sự:

Tại đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 30/5/2023, bà T yêu cầu công ty trả cho bà tiền lương của tháng 01/2023, tháng 02/2023 và một nửa tháng 03/2023 (2,5 tháng) trên mức lương 6.500.000 đồng/tháng, tổng số tiền là 16.250.000 đồng. Việc sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện này là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 71 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Huỳnh Thị Ánh T không cung cấp được cho Tòa án hợp đồng lao động, thẻ nhân viên, bảng lương có xác nhận của công ty. Tuy nhiên, bà T có cung cấp bản chụp bảng lương của công nhân cho Tòa án. Đồng thời, qua kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án là công văn số 361/BHXH ngày 27/7/2023 của cơ quan Bảo hiểm Xã hội Q, thể hiện công ty có đóng bảo hiểm xã hội cho bà T từ tháng 11/2022 theo mức lương 6.500.000 đồng/tháng với chức danh kế toán. Điều này chứng minh giữa bà T và công ty có quan hệ lao động từ tháng 11/2022, mức lương cho công việc kế toán là 6.500.000 đồng/tháng.

Nguyên đơn trình bày, từ ngày 08/3/2023, bà không đến công ty nhưng bà vẫn làm lương cho công nhân, làm các công việc của kế toán như khi có mặt tại công ty cho đến hết ngày 15/3/2023. Do vậy có cơ sở xác định bà T làm việc cho công ty đến ngày 15/3/2023.

Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn theo quy định tại Điều 94 của Bộ luật lao động năm 2019. Công ty đã được Tòa án thông báo việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, triệu tập tham gia tố tụng nhưng không đến Tòa án, không gửi văn bản phản đối các tình tiết, sự kiện nguyên đơn đưa ra nên theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản do Tòa án thu thập, xác minh, có cơ sở xác định, công ty còn nợ bà T tiền lương tháng 01/2023, tháng 02/2023 và một nửa tháng 03/2023 trên mức lương 6.500.000 đồng/tháng, với tổng số tiền là 16.250.000 đồng. Do đó, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát, cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền lương còn thiếu nói trên.

[5] Về án phí lao động sơ thẩm:

Bị đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Án phí là: 3% x 16.250.000 đồng = 487.500 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 71, khoản 2 Điều 91, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 13, Điều 20, Điều 94, khoản 1 Điều 188 của Bộ luật Lao động năm 2019;

Căn cứ vào Điều 43 của Luật Việc làm năm 2013;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào các điều 2, 6, 7, 7a, 7b, 9, 30 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008,

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn C phải trả cho bà Huỳnh Thị Ánh T tiền lương tháng 01 năm 2023, tháng 02 năm 2023 và một nửa tháng 03 năm 2023 trên mức lương 6.500.000 đồng/tháng (Sáu triệu năm trăm ngàn đồng một tháng), với tổng số tiền là 16.250.000 (Mười sáu triệu hai trăm năm mươi ngàn) đồng.

Kể từ ngày bà Huỳnh Thị Ánh T có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền nói trên, hàng tháng Công ty Trách nhiệm hữu hạn C còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn C phải chịu án phí là 487.500 (Bốn trăm tám mươi bảy ngàn năm trăm) đồng.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tranh chấp lao động tiền lương số 72/2023/LĐ-ST

Số hiệu:72/2023/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 12 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;