TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 06/2024/DS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 06/3/2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 01/2024/TLST - DS ngày 05 tháng 01 năm 2024 về việc “Tranh chấp K đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-DS, ngày 19 tháng 02 năm 2024, giữa:
Nguyên đơn: Chị Lưu Thị Kim T, sinh năm 1986;
Địa chỉ: Xóm Đ, xã P, T.P P, tỉnh Thái Nguyên.
Bị đơn: Chị Tương Thị O, sinh năm 1986;
Địa chỉ: TDP S, phường B, T.P P, tỉnh Thái Nguyên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hà Văn T1, sinh năm 1981;
Địa chỉ: Xóm Đ, xã P, T.P P, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt chị T, anh T1; chị O có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, các lời trình bày tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lưu Thị Kim T trình bày:
Chị và chị Lương Thị O trước đây có quan hệ đồng nghiệp, cùng công tác tại trường Tiểu học P, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên. Ngày 13/11/2019, chị O có hỏi vay chị số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Chị O nói là để giải quyết công việc gia đình và hẹn chị đến ngày 03/02/2020 sẽ trả chị toàn bộ số tiền nên trên. Chị đồng ý cho chị O vay và không yêu cầu tính lãi. Hai bên đã giao nhận đủ số tiền và viết giấy vay tiền tại nhà riêng của chị. Đến thời hạn trả nợ, chị O không trả tiền cho chị như cam kết. Chị đã nhiều lần nhắc nhở, thúc giục chị O trả nợ nhưng chị O chỉ khất lần không trả. Nay chị khởi kiện đề nghị Tòa án buộc chị O trả cho chị toàn bộ số tiền nợ gốc là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), không yêu cầu tính lãi.
Về nguồn gốc số tiền vay: Chị T xác định, số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) chị cho chị O vay là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng chị (chị và anh Hà Văn T1). Chị O đến nhà hỏi chị vay tiền, chồng chị không có mặt tại nhà riêng nhưng trước đó vợ chồng chị đã thoả thuận thống nhất về việc cho chị O vay số tiền nêu trên. Giấy vay tiền và các nội dung trong đó đều do chị O soạn thảo và giao cho chị.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản phiên hoà giải, bị đơn chị Lương Thị O trình bày:
Ngày 13/11/2019 chị có vay của chị Lưu Thị Kim T (là đồng nghiệp cùng trường Tiểu học P1) số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), mục đích để góp vốn làm ăn cùng bạn của chị. Chị và chị T có lập giấy vay tiền bằng văn bản hẹn ngày trả là ngày 03/02/2020. Có thoả thuận trả lãi 10.000.000 đồng/tháng, tuy nhiên nội dung này chỉ thoả thuận bằng miệng không ghi trong giấy vay tiền.
Sau khi vay tiền, chị đã trả lãi được khoảng 3 đến 4 lần với số tiền khoảng 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) trong năm 2019- 2020, tuy nhiên chị không còn nhớ rõ thời gian cụ thể. Từ khoảng năm 2021, do bạn chị làm ăn thua lỗ, các khoản tiền góp chung bị bạn chị mang đi khỏi địa phương, chị không còn khả năng trả tiền cho chị T nữa.
Nay chị T khởi kiện yêu cầu chị trả toàn bộ số tiền nợ gốc là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), chị thừa nhận có vay khoản nợ trên nhưng do hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn, hiện tại chị còn đang phải trả nợ và thi hành án một khoản tiền khác nữa do vậy đề nghị được trả dần cho chị T 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi hết nợ.
Tại bản tự khai và tại phiên toà, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Hà Văn T1 trình bày:
Anh là chồng chị Lưu Thị Kim T (A và chị T kết hôn từ năm 2012). Năm 2019 chị T và chị O có quan hệ đồng nghiệp, chị O cần tiền để giải quyết công việc riêng đã đến hỏi vay vợ anh mượn số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) hẹn ngày trả là ngày 03/02/2020. Thời điểm đó anh đi làm ăn xa, không có mặt ở nhà nhưng vợ chồng anh đã bàn bạc, thống nhất cho chị O mượn số tiền trên và không tính lãi. Chị T đã đứng ra giao nhận tiền, lập giấy vay tiền với chị O để làm căn cứ. Nay đã quá hạn trả nợ, chị O khất lần không trả. Số tiền chị T cho chị O vay là số tiền chung mà vợ chồng anh đã tích góp nhiều năm để phòng khi đau ốm, hoạn nạn nhưng vì nể chị O là đồng nghiệp của vợ nên mới đồng ý cho vay. Hiện nay chị T thường xuyên đau ốm phải đi bệnh viện chữa trị, hai con nhỏ đang tuổi ăn học, anh đề nghị Tòa án buộc chị O phải trả lại cho anh chị toàn bộ số tiền nợ gốc 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), không yêu cầu tính lãi suất.
Tại phiên hoà giải, bị đơn, chị O đề nghị được trả dần 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi hết nợ; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt; Nguyên đơn không đồng ý với phương án của bị đơn và đề nghị chị O phải trả toàn bộ số nợ gốc cho vợ chồng chị. Phiên họp hoà giải không thành nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND thành phố Pho Yên phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến đề nghị, kiến nghị gì.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 357, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ra Bản án với nội dung:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp “Kiện đòi vay tài sản”.
1. Về khoản tiền nợ gốc: Buộc chị Lương Thị O có nghĩa vụ trả cho chị Lưu Thị Kim T và anh Hà Văn T1 toàn bộ khoản tiền nợ gốc 100.000.000d (Một trăm triệu đồng) theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc bị đơn phải chịu án phí có giá ngạch theo quy định của pháp luật.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe đại diện VKS phát biểu quan điểm chấp hành pháp luật tố tụng và quan điểm về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về thời hiệu khởi kiện và quan hệ tranh chấp: Đơn khởi kiện và yêu cầu của nguyên đơn cũng như các tài liệu có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có cơ sở xác định đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp kiện đòi tài sản”. Tại khoản 3 Điều 23 của Nghị quyết số: 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quy định:
“Đối với tranh chấp dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự (hợp đồng vay tài sản, (...)), thì giải quyết như sau: ...
b) Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản,... thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện”.
Tranh chấp giữa chị Lưu Thị Kim T và chị Lương Thị O về Giấy vay tiền lập ngày 13/11/2019, về bản chất là tranh chấp dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự được thể hiện dưới dạng hợp đồng vay tài sản thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Do đó, chị T vẫn có quyền yêu cầu khởi kiện đòi khoản tiền nợ gốc đối với chị O.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp kiện đòi tài sản”. Bị đơn có nơi cư trú tại phường B, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ quy định tại Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
[1.3]. Về tư cách tham gia tố tụng của các đương sự: Trong quá trình khởi kiện nguyên đơn xuất trình Giấy vay tiền chỉ có chữ ký của bị đơn chị Lương Thị O. Bị đơn xác định đây là khoản vay cá nhân của chị để cùng bạn làm ăn, không liên quan gì đến chồng chị. Tại bản tự khai, anh Hoàng Văn H, (chồng chị O) cũng xác định việc chị O vay tiền của chị Thạch a hoàn toàn không được biết và không được sử dụng nguồn tiền đó. Do đó, Tòa án không đưa chồng chị O vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người làm chứng trong vụ án; Đồng thời, nguyên đơn xác định khoản tiền cho bị đơn vay là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của chị và anh Hà Văn T1. Anh T1 cũng thừa nhận nội dung này. Do vậy, Tòa án đưa anh Hà Văn T1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
[1.4]. Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên toà, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử nhận thấy, quá trình giải quyết vụ án bị đơn đã có lời trình bày đầy đủ, rõ ràng được lưu trong hồ sơ vụ án. Do vậy, sự vắng mặt của bị đơn không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiếp tục tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]. Về nội dung tranh chấp:
[2.1]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với khoản tiền nợ 13/11/2019/01/2022 giữa người vay tiền là chị Lương Thị O và người cho vay là chị Lưu Thị Kim T. Hai bên thống nhất xác nhận chị T cho chị O vay số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng), không thoả thuận về lãi suất. Thời hạn trả nợ là ngày 03/02/2020. Chị O thừa nhận khoản tiền vay. Như vậy, có căn cứ xác định giữa các bên có thỏa thuận thực hiện một hợp đồng vay tài sản, đây là hợp đồng có kỳ hạn, không có tài sản đảm bảo được quy định tại Điều 463 và Điều 466 Bộ luật dân sự. Tại thời điểm giao kết, chủ thể tham gia ký kết có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự. Hình thức của hợp đồng được lập bằng văn bản, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng trên nguyên tắc tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Quá trình thực hiện hợp đồng, chị O không thực hiện trả lãi đúng như thỏa thuận, như vậy chị O đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay tài sản được quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự. Do vậy, chị T khởi kiện để đòi khoản tiền gốc là có căn cứ, cần được chấp nhận.
[2.2]. Về lãi suất của khoản tiền vay: Từ lời trình bày của các đương sự xác định: Hai bên có thoả thuận miệng về việc tính lãi suất đối với khoản tiền vay nhung nội dung này không được thể hiện tại Giấy vay tiền ngày 13/11/2019. Quá trình thực hiện hợp đồng, chị O trình bày có trả cho chị T khoảng 3 đến 4 lần tiền lãi với tổng số tiền khoảng 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Chị T thừa nhận, ngoài số tiền 100.000.000 đồng chị O vay chị như đã nêu, sau thời điểm đó chị O còn vay chị một lần nữa với số tiền 20.000.000đ nhưng không viết giấy tờ gì. Một thời gian sau chị O có trả cho chị 30.000.000 đồng thì chị tự hiểu là chị O đã trả cho chị 20.000.000đồng tiền vay của lần sau và trả 10.000.000 đồng tiền lãi của khoản vay 100.000.000 đồng. Ngoài ra chị không nhận thêm được khoản tiền nào khác. Tuy nhiên, tại đơn khởi kiện và tại phiên toà chị T không yêu cầu tính lãi suất đối với khoản tiền vay nêu trên do vậy Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[3]. Về lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho bên được thi hành án: Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả cho đến khi thi hành xong. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên, nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
[4]. Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận nên buộc bị đơn phải chịu án phí có giá ngạch theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chị Lương Thị O phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là: 100.000.000đ x 5% = 5.000.000đ (năm triệu đồng).
[5]. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ khoản 3 Điều 23 của Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi năm 2014.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Liru Thị Kim T về “Tranh chấp kiện đòi tài sản”.
1. Về nghĩa vụ trả nợ gốc: Buộc chị Lương Thị O có nghĩa vụ trả cho vợ chồng chị Lưu Thị Kim T, anh Hà Văn T1 toàn bộ số tiền nợ gốc 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả cho đến khi thi hành xong. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên, nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
2. Về án phí:
Buộc chị Lương Thị O phải chịu 5.000.000đ (Năm triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch nộp Ngân sách Nhà nước.
Trả lại chị Lưu Thị Kim T tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.500.000đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng) tại biên lai thu số 0001463 ngày 05/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
3. Về quyền kháng cáo:
Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.
Bản án 06/2024/DS-ST về tranh chấp kiện đòi tài sản
Số hiệu: | 06/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về