TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 12/2022/DSST NGÀY 14/04/2022 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI NỢ
Ngày 14 tháng 4 năm 2022. Tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Xét xử sở thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 29/2021/DSST, ngày 13 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXXST-DS, ngày 31/3/2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam. Địa chỉ: Số 169, Phố LĐ, HL, Quận HM, Thành phố Hà Nội.
Có ông; Dương LL, Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng CSXH huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Có mặt
2. Bị đơn: Ông Võ Đình L, sinh năm 1977. Địa chỉ: Xóm TS, xã ĐĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà; Trần Thị Th, sinh năm 1983. Địa chỉ: Xóm TS, xã ĐĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa, đại diện của nguyên đơn, trình bày như sau: Ngày 10/7/2015 ông Võ Đình L đại diện cho hộ gia đình vợ chồng ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ làm đơn xin vay vốn Quỹ cho vay giải quyết việc làm của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, Phòng giao dịch huyện Thanh Chương; sau khi thực hiện xem xét theo quy trình thẩm định phê duyệt dự ansvay vốn việc làm của UBND huyện Thanh Chương; Ngày 24/8/2015 Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam đã giải ngân cho vợ chồng ông Võ Đình L vay số tiền 10.000.000 đồng, thời hạn cho vay là 36 tháng, lãi suất là 0,55%/tháng. Đến ngày 06/7/2018 ông Võ Đình L đã làm đơn xin đề nghị gia hạn và đã được Ngân hàng đồng ý cho gia hạn đến ngày 07/4/2019 theo quy định của ngân hàng.
Quá trình thực hiện hợp đồng vay vốn theo dự án, vợ chồng ông Võ Đình L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo quy định của ngân hàng; Ban quản lý tổ Tiết kiệm và vay vốn và Ngân hàng Chính sách huyện, Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách huyện đã nhiều lần trực tiếp làm việc, đôn đốc, nhắc nhở và lập biên bản tìm biện pháp để hộ vay trả nợ nhưng hộ vay vợ chồng ông Võ Đình L cố tình trốn tránh, chây ỳ, không chịu trả nợ.Vì vậy, Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Thanh Chương, đề nghị Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An buộc ông Võ Đình L và bà Trần Thị Th trả nợ cho ngân hàng số tiền gốc:
10.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày hôm nay là 3.449.000 đồng và lãi phát sinh đến ngày tất toán các khoản vay.
Ngoài ra ngân hàng không có yêu cầu gì thêm.
Bị đơn và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Trong quá giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhiều lần để công khai chứng cứ và hòa giải; song bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về mặt thủ tục tố tụng. Còn về nội dung: Đề nghị Tòa án, xử: Buộc vợ chồng ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ liên đới trả nợ cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam số tiền gốc là 10.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày hôm nay là 3.449.000 đồng và lãi phát sinh đến ngày tất toán các khoản vay. Vợ chồng ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ, liên đới chịu trách nhiệm tiền án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ gốc và lãi theo hợp đồng, cho nên đây là tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Căn cứ khoản 3 Điều 26; Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ, đến Tòa án để làm việc, công khai chứng cứ và hòa giải, song tất cả đều vắng mặt. Tòa án cũng đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập hợp lệ, nhưng bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt. Đây là phiên tòa được mở lần thứ hai, nhưng bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt tại phiên tòa, cho nên Tòa án vẫn xét xử bình thường theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Ngày 24/8/2015 Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam đã cho vợ chồng ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ vay vốn theo dự án giải quyết việc làm theo Đơn xin vay vốn và Sổ Vay vốn mã KH: 7066908945 ngày 07/7/2015 với số tiền là 10.000.000 đồng, thời hạn vay là 36 tháng, lãi suất theo quy định của ngân hàng; ngày 07/7/2019 Ngân hàng đã đồng ý tiếp tục cho gia hạn theo đơn đề nghị gia hạn nợ ngày 06/7/2019 của ông Võ Đình L.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng vay vốn ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ, đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam như đã cam kết trong khế ước vay; đại diện Ngân hàng và các tổ chức đã nhiều lần đôn đốc, đề nghị ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ, thanh toán trả nợ, nhưng vẫn không thực hiện Tính đến ngày hôm nay ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ còn nợ Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam số tiền gốc là 10.000.000 đồng và tiền lãi là 3.449.000 đồng
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn có trách nhiệm nghĩa vụ trả nợ số tiền gốc và lãi đã vay theo Sổ vay vốn ngày 07/7/2015 giữa vợ chồng ông Võ Đình L và Ngân hàng chính sách xã hội huyện Thanh Chương, với số tiền gốc là 10.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày hôm nay là 3.449.000 đồng, là có căn cứ để chấp nhận; các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là có căn cứ, như Đơn đề nghị vay vốn dự án giải quyết việc làm; Sổ vay vốn ngày 07/7/2015 và các chứng cứ giải ngân tiền, công văn đốc thúc trả nợ.
[4] Xét ý kiến của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt và không có ý kiến gì, nên Tòa án không xem xét.
[5] Xét ý kiến của Kiểm sát viên:
Các ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với lời khai của nguyên đơn và các chứng cứ khác có tại hồ sơ đã được làm rõ tại phiên tòa.
[6] Vì vậy cần buộc ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ, có trách nhiệm nghĩa vụ liên đới trả nợ cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, số tiền gốc là 10.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày hôm nay là 3.449.000 đồng, như yêu cầu của đại diện ngân hàng. Là hoàn toàn phù hợp với. Điều 274; 275; 288; 463; 466; 468 Bộ luật dân sự.
[7] Về án phí: Bị đơn và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phải chịu tiền án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên ;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; Điều 147; 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 274; 275; 288; 463; 465; 466; 468 Bộ luật dân sự. Điều 27; 37 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 91; 95 Luật các tổ chức tín dụng. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam.
2. Buộc vợ chồng ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ, có trách nhiệm liên đới trả nợ cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, như sau: Tiền gốc của Sổ vay vốn ngày 07/7/2015 là: 10.000.000 đồng ( Mười triệu đồng ); số tiền lãi tính đến ngày hôm nay là: 3.449.000 đồng ( Ba triệu, bốn trăm, bốn mươi chín nghìn đồng ).
3. Về án phí: Ông Võ Đình L và bà Trần Thị Thuỷ, liên đới phải chịu:
672.000 đồng (Sáu trăm, bảy mươi hai nghìn đồng ), tiền án phí dân sự.
4. Kể từ ngày 15/4/2022, cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận, nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
5. Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết công khai theo quy định.
Bản án về tranh chấp kiện đòi nợ số 12/2022/DSST
Số hiệu: | 12/2022/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về