TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TRANH CHẤP KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Trong ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 293/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp không công nhận quan hệ vợ chồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 14 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 33/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Bùi Thị D, sinh năm 1971. Có mặt.
Nơi cư trú: thôn T, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội.
- Bị đơn: ông Lê Văn Th, sinh năm 1966. Vắng mặt.
Nơi cư trú: thôn T, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là bà Bùi Thị D trình bày:
- Về hôn nhân: bà và ông Lê Văn Th chung sống như vợ chồng từ năm 1989 đến nay nhưng không có đăng ký kết hôn. Từ năm 1999, giữa hai bên bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, sau đó trở nên trầm trọng. Nguyên nhân chính là do tính cách không hòa hợp, bất đồng quan điểm, lối sống, thường xuyên cãi chửi nhau. Bà đã tìm mọi biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Bà và ông Th đã ly thân từ năm 2000 đến nay, mỗi người cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai. Nay bà xác định tình cảm giữa bà và ông Th không còn, chung sống không hạnh phúc nên đề nghị Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà và ông Lê Văn Th.
- Về con chung: bà và ông Lê Văn Th có 03 con chung là: Lê Văn Th, sinh ngày 15/5/1989; Lê Văn Tr, sinh ngày 15/7/1991 và Lê Thị Th, sinh ngày 29/6/1994. Hiện nay các con chung đều đã trưởng thành, tự lập và có cuộc sống riêng nên bà không có yêu cầu, đề nghị gì về vấn đề này.
- Về tài sản, công sức và nợ chung: giữa bà và ông Lê Văn Th không có gì, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết, mặc dù Tòa án đã tống đạt và triệu tập hợp lệ đầy đủ nhưng bị đơn là ông Lê Văn Th đều vắng mặt không có lý do, không có văn bản nêu quan điểm, yêu cầu.
Tại Biên bản ghi lời khai ngày 20/11/2020 của ông Lê Văn Th, có xác nhận của UBND xã H, ông Th trình bày:
- Về hôn nhân: ông xác nhận việc chung sống với bà Bùi Thị D như vợ chồng từ năm 1989 đến nay nhưng không có đăng ký kết hôn là đúng. Mâu thuẫn giữa ông và bàị D trầm trọng là do bất đồng quan điểm. Do không hàn gắn được nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2000 đến nay và không ai quan tâm đến ai. Nay bàị D yêu cầu ly hôn, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Về con chung: ông và bàị D có 03 con chung là Lê Văn Th, sinh ngày 15/5/1989; Lê Văn Tr, sinh ngày 15/7/1991 và Lê Thị Th, sinh ngày 29/6/1994. Hiện nay các con chung đều đã trưởng thành, tự lập và có cuộc sống riêng nên ông cũng không có yêu cầu, đề nghị gì về vấn đề này.
- Về tài sản, công sức và nợ chung: ông và bà Bùi Thị D không có gì, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề này.
Ý kiến, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, thành phố Hà Nội về việc giải quyết vụ án:
Tại phiên tòa, bà Bùi Thị D vẫn giữ nguyên yêu cầu, ông Lê Văn Th đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai những vẫn vắng mặt không lý do.
Ý kiến, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, thành phố Hà Nội về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: quá trình tiến hành tố tụng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật có liên quan trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành giải quyết vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Chấp nhận yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng của bà Bùi Thị D.
- Về con chung, tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết.
- Về án phí: nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
Đây là vụ án tranh chấp không công nhận quan hệ vợ chồng được quy định tại khoản 8 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, bị đơn là ông Lê Văn Th đang thường xuyên cư trú tại: thôn T, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về sự vắng mặt của đương sự: bị đơn Lê Văn Th mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.
Về nội dung:
[1] Về quan hệ hôn nhân: bà Bùi Thị D và ông Lê Văn Th đều xác nhận chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1989 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân xã Hùng Tiến, huyện M, thành phố Hà Nội cũng xác nhận sự việc trên là đúng. Hội đồng xét xử nhận thấy: việc bà Bùi Thị D và ông Lê Văn Th chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1990 nhưng không đăng ký kết hôn đã vi phạm Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Theo hướng dẫn tại điểm b mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bàị D và ông Th phải có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực, tức là từ ngày 01/01/2001 đến 01/01/2003. Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2001 đến nay, mặc dù có đủ điều kiện nhưng bàị D và ông Th vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định, việc này vi phạm Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, bàị D và ông Th không được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, hướng dẫn tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số: 01/2016/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 06-01-2016 giữa Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp. Do mâu thuẫn trầm trọng nên bàị D yêu cầu Toà án giải quyết không công nhận bà và ông Th là vợ chồng. Xét thấy, yêu cầu của bàị D là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về con chung: bà Bùi Thị D và ông Lê Văn Th đều xác nhận có 03 con chung là: Lê Văn Th, sinh ngày 15/5/1989; Lê Văn Tr, sinh ngày 15/7/1991 và Lê Thị Th, sinh ngày 29/6/1994. Hiện nay các con chung đều đã trưởng thành, tự lập, có sức khỏe và khả năng nhận thức bình thường, các đương sự đều không có yêu cầu, đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: bàị D và ông Th đều xác nhận không có và không đề nghị giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: nguyên đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 9, Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 giữa Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp;
- Căn cứ khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 238; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị D.
1. Về quan hệ hôn nhân: không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Bùi Thị D và ông Lê Văn Th.
2. Về án phí: bà Bùi Thị D phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003038 ngày 18/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M, thành phố Hà Nội.
3. Về quyền kháng cáo: nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về tranh chấp không công nhận quan hệ vợ chồng số 19/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 19/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mê Linh - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về