Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tiền và cầm cố tài sản số 22/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 22/2022/DS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TIỀN VÀ CẦM CỐ TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 106/2021/TLST-DS ngày 27 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp hợp đồng vay tiền và cầm cố tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2022/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV Q. Người đại diện theo pháp luật:

Ông Võ Q, chức vụ: Chủ tịch kiêm Giám đốc.

Địa chỉ: Số 52, đường 28, Khu phố 2, phường P, thành phố H, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mạc Văn K, chức vụ: Nhân viên xử lý nợ. Địa chỉ: Số 90, P, Khu phố 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Kiên Giang. (Giấy ủy quyền ngày 27/12/2021)

2. Bị đơn:

- Bà Lê Tuyết A, sinh năm 1972;

- Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1968.

Cùng địa chỉ: Tổ 7, ấp N, xã Y, thành phố H, tỉnh Kiên Giang.

(Ông K có mặt, bà A và ông Th vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 12 năm 2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Công ty TNHH MTV Q có nhận cầm cố tài sản của bà Lê Tuyết A và ông Nguyễn Văn Th. Theo hợp đồng cầm cố tài sản số TT:1360/HĐ ngày 27/9/2019, Công ty cho bà A và ông Th vay 30.000.000 đồng, lãi suất 1.26%/tháng, thời hạn 06 tháng, hình thức thanh toán: Thu 179.250 đồng/ngày, ngày cuối cộng 3.000 đồng.

Tài sản cầm cố: 01 chiếc xe mô tô, xe máy 02 bánh nhãn hiệu YAMAHA (EXCITER), màu sơn: Đen, số máy G3D4E665079, số khung 0610JY638749, dung tích 149m3, BKS: 68H1-125.45, giấy chứng nhận đăng ký xe số 009135 mang tên Lê Tuyết A do Công an H, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/02/2018. Sau đó, bà A và ông Th mượn chiếc xe trên làm phương tiện đi lại và Công ty đồng ý cho mượn.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà A và ông Th đã thanh toán cho Công ty số tiền 7.000.000 đồng, còn nợ lại 29.000.000 đồng. Công ty đã nhiều lần thông báo yêu cầu thanh toán số tiền trên nhưng bà A và ông Th vẫn không chịu thanh toán.

Nay, Công ty TNHH MTV Q yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà A và ông Th phải thanh toán số tiền 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng), trong đó nợ gốc 24.164.250 đồng và lãi là 4.835.750 đồng. Đồng thời, bà A và ông Th phải trả lãi chậm trả theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 số tiền là 8.022.531 đồng và tiếp tục chịu lãi chậm trả từ ngày 08/12/2021 cho đến khi thanh toán dứt nợ. Khi nào bà A và ông Th thanh toán xong số tiền trên, Công ty đồng ý trả lại bản chính các giấy chứng nhận đăng ký xe nêu trên cho bà A và ông Th.

Ngày 27/5/2022, Công ty TNHH MTV Q làm đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với tiền lãi là 3.008.750 đồng, tiền chậm thanh toán là 4.010.768 đồng.

Theo nội dung biên bản lấy lời khai ngày 20/4/2022, bị đơn ông Nguyễn Văn Th trình bày:

Ngày 27/9/2019, ông Th và vợ là bà Lê Tuyết A có đến Công ty TNHH MTV Q ký kết hợp đồng cầm cố tài sản chiếc xe để vay số tiền 30.000.000 đồng. Ông Th có cầm giấy chứng nhận xe BKS: 68H1-125.45. Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Q, ông Th thừa nhận còn nợ 29.000.000 đồng, ông Th không có khả năng trả một lần, xin trả nợ là 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi dứt nợ. Chiếc xe BKS: 68H1-125.45 do con ông Th sử dụng nhưng đã mất rồi.

Từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, bị đơn bà Lê Tuyết A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa làm việc, không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông Th và bà A đều không đến Tòa làm việc nên Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt, niêm yết văn bản tố tụng, thực hiện trình tự thủ tục giải quyết vụ án theo quy định.

Nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ liên quan yêu cầu khởi kiện bao gồm: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH MTV Q (bản sao); Giấy chứng minh nhân dân tên Lê Tuyết A và Nguyễn Văn Th (phô tô); Sổ hộ khẩu chủ hộ Lê Tuyết A (phô tô); Giấy chứng nhận đăng ký xe số 009135 mang tên Lê Tuyết A (phô tô chứng thực); Hợp đồng cầm cố tài sản số TT:1360/HĐ (bản chính).

Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu về việc yêu cầu khởi kiện và đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với tiền lãi là 3.008.750 đồng, tiền chậm thanh toán là 4.010.768 đồng.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên tòa như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử: Vụ án thụ lý là đúng thẩm quyền và đúng quan hệ pháp luật; xác định đầy đủ và đúng tư cách những người tham gia tố tụng; lập hồ sơ, thu thập chứng cứ đầy đủ; giao gửi các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng quy định; gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định.

- Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Th và bà A phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Q số tiền nợ gốc là 24.164.250 đồng, tiền lãi là 1.827.000 đồng, tiền lãi chậm thanh toán theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 từ ngày 26/3/2020 cho đến khi thanh toán dứt nợ; Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đối với tiền lãi là 3.008.750 đồng, tiền chậm thanh toán là 4.010.768 đồng. Ghi nhận việc Công ty đồng ý trả lại bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe sau khi bị đơn thanh toán xong nợ. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn bà Lê Tuyết A và ông Nguyễn Văn Th có nơi cư trú tại ấp N, xã Y, thành phố H, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền vay còn thiếu theo hợp đồng cầm cố tài sản giữa hai bên. Đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tiền và cầm cố tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn bà Lê Tuyết A và ông Nguyễn Văn Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng đều vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Hợp đồng cầm cố tài sản ngày 27/9/2019, lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, Hội đồng xét xử xác định giữa Công ty TNHH MTV Q với bà Lê Tuyết A và ông Nguyễn Văn Th có xác lập hợp đồng vay tiền, biện pháp bảo đảm là cầm cố tài sản. Mặc dù hình thức của hợp đồng ghi là hợp đồng cầm cố tài sản, nhưng các thỏa thuận chủ yếu của các bên trong hợp đồng là giao kết hợp đồng vay tiền như là thỏa thuận về người vay, số tiền cho vay, lãi suất vay, tín chấp, ...và thỏa thuận biện pháp bảo đảm là cầm cố tài sản. Hợp đồng cầm cố tài sản số TT:1360/HĐ ngày 27/9/2019, Công ty cho bà A và ông Th vay 30.000.000 đồng, lãi suất 1.26%/tháng, thời hạn 06 tháng, hình thức thanh toán: Thu 179.250 đồng/ngày, ngày cuối cộng 3.000 đồng. Tài sản cầm cố: 01 chiếc xe mô tô, xe máy 02 bánh nhãn hiệu YAMAHA (EXCITER), màu sơn: Đen, số máy G3D4E665079, số khung 0610JY638749, dung tích 149m3, BKS: 68H1-125.45, giấy chứng nhận đăng ký xe số 009135 mang tên Lê Tuyết A do Công an H, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/02/2018. Tuy nhiên tại thời điểm ký kết hợp đồng, bên cầm cố là bà A và ông Th không giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho Công ty, Công ty không nắm giữ tài sản là chiếc xe mà ghi trong hợp đồng là cho bà A và ông Th mượn sử dụng, chỉ giữ lại giấy chứng nhận đăng ký xe. Theo quy định tại Điều 309 của Bộ luật Dân sự, cầm cố tài sản chỉ là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong vụ án này là nghĩa vụ vay tiền. Như vậy, giao kết giữa các bên thực chất là giao kết hợp đồng vay tiền. Đây là hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi, phù hợp quy định tại Điều 463 và khoản 2 Điều 470 của Bộ luật Dân sự. Giao dịch dân sự được xác lập giữa các bên có hiệu lực theo quy định tại Điều 116 và Điều 117 của Bộ luật Dân sự.

[4] Theo quy định tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ trả nợ của bên vay: “1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn, …”. Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự về lãi suất quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay ...”. Do bà A và ông Th vi phạm việc trả nợ, nên Công ty TNHH MTV Q yêu cầu bà A và ông Th phải có nghĩa vụ trả nợ là có căn cứ chấp nhận. Bà A và ông Th còn nợ tiền gốc là 24.164.250 đồng, nợ tiền lãi là 1.827.000 đồng, tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 25/3/2020 – 08/12/2021 là 4.011.763 đồng. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu về việc yêu cầu khởi kiện và xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần tiền lãi là 3.008.750 đồng và tiền chậm thanh toán là 4.010.768 đồng, nên Hội đồng xét xử đình chỉ phần yêu cầu này theo quy định tại khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy, tổng cộng số nợ buộc bà A và ông Th có trách nhiệm trả cho nguyên đơn gồm: Tiền gốc là 24.164.250 đồng + tiền lãi là 1.827.000 đồng + tiền lãi chậm thanh toán của tiền gốc (từ ngày 26/3/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm 26/7/2022) là 5.615.772 đồng = 31.607.022 đồng. Đồng thời, bà A và ông Th phải trả lãi chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 từ ngày 27/7/2022 cho đến khi thanh toán dứt nợ. Ghi nhận ý kiến của Công ty TNHH MTV Q về việc khi nào bà A và ông Th thanh toán xong số tiền trên, Công ty đồng ý trả lại bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe số 009135 cho bà A và ông Th.

[5] Về án phí: Bà A và ông Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% trên số tiền phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Q, số tiền án phí là 1.580.000 đồng. Hoàn trả cho Công ty TNHH MTV Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 26, 35, 39, 147, 217, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 309, 357, Điều 463, khoản 1 Điều 466, Điều 468 và khoản 2 Điều 470 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Q. Buộc bà Lê Tuyết A và ông Nguyễn Văn Th phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Q số tiền 31.607.022 đồng (Ba mươi mốt triệu sáu trăm lẻ bảy nghìn không trăm hai mươi hai đồng), trong đó nợ gốc 24.164.250 đồng, nợ lãi là 1.827.000 đồng, tiền lãi chậm thanh toán là 5.615.772 đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ghi nhận ý kiến của Công ty TNHH MTV Q về việc khi nào bà A và ông Th thanh toán xong số tiền trên, Công ty đồng ý trả lại cho bà A và ông Th bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe số 009135 mang tên Lê Tuyết A do Công an H, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/02/2018.

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Q đối với phần tiền lãi là 3.008.750 đồng (Ba triệu không trăm không tám nghìn bảy trăm năm mươi đồng) và tiền chậm thanh toán là 4.010.768 đồng (Bốn triệu không trăm mười nghìn bảy trăm sáu mươi tám đồng).

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Buộc bà Lê Tuyết A và ông Nguyễn Văn Th phải cùng chịu án phí số tiền 1.580.000 đồng (Một triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng).

- Trả lại cho Công ty TNHH MTV Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 925.563 đồng (Chín trăm hai mươi lăm nghìn năm trăm sáu mươi ba đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000339 ngày 27/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Kiên Giang.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

408
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tiền và cầm cố tài sản số 22/2022/DS-ST

Số hiệu:22/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;