TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 84/2024/DS-PT NGÀY 10/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ YÊU CẦU TRẢ LẠI GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 04 và ngày 10 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 277/2023/TLPT-DS, ngày 27 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 34/2023/DS-ST ngày 16/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 79/2024/QĐ-PT ngày 04/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị V, sinh năm 1966. Địa chỉ: Số D, đường D, khu phố R, phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Bà Hồ Thị Ngọc T, sinh năm 1968. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số B, đường H, khu phố A, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 3.1. Ông Nguyễn Hữu Trọng Q, sinh năm 1997. Địa chỉ: Số D, đường D, khu phố R, phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. 3.2. Bà Hồ Thị Ngọc H, sinh năm 1973. Địa chỉ: Số C, đường H, khu phố E, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hữu Trọng Q là: Ông Thiêm Diên T1, sinh năm 1960. Địa chỉ: Số C, đường B, khu phố B, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai, (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 26-3-2022 và ngày 29-8-2023).
Người đại diện hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Ngọc H là: Bà Tống Thị Thu N, sinh năm 1993. Địa chỉ: số A, đường N, phường B, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 27-7-2023).
Người kháng cáo: Ngày 27/9/2023 bà Hồ Thị Ngọc T kháng cáo toàn bộ bản án. Ngày 27/9/2023 bà Hồ Thị Ngọc H kháng cáo toàn bộ bản án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung Bản án sơ thẩm: *Theo đơn khởi kiện, các lời khai, cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Hồ Thị V (do ông Thiêm Diên T1 đại diện) trình bày:
Vào năm 2005, chồng bà V là Nguyễn Hữu L là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 109960 do Ủy ban nhân dân huyện L (cũ) cấp ngày 09-6-1999, đối với diện tích 7.711m², nguồn gốc đất của cha mẹ ông L, là đối tượng của vụ án tranh chấp dân sự thụ lý vào năm 2003.
Năm 2016, vụ án được xét xử xong, án có hiệu lực thi hành, trong các khoản phải thi hành án, thì các con của bà V là Nguyễn Hữu Trọng Q, Nguyễn Hữu Trọng S phải thanh toán kỳ phần cho các đồng thừa kế, án phí dân sự sơ thẩm với tổng số tiền là 116.841.600 đồng.
Do điều kiện khó khăn, không có tiền để thi hành án nên có nhờ bà Hồ Thị Ngọc T vay tiền, đồng thời để lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T để đảm bảo cho khoản vay nêu trên. Theo thoả thuận đó, ngày 19-9-2016, bà T nộp cho gia đình bà V số tiền 100.000.000 đồng (thanh toán kỳ phần cho ông Nguyễn Hữu H1); đến ngày 04-7-2017, bà T tiếp tục nộp thay số tiền 16.841.600 đồng.
Thoả thuận vay có đảm bảo bằng việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thoả thuận miệng vì là chị em ruột, không thoả thuận thời hạn vay, lãi suất vay cũng như không có thời hạn thanh toán.
Sau khi đã thực hiện xong các khoản tiền thi hành án, vào tháng 4-2018, gia đình bà V có đủ tiền để trả cho bà T, nhưng nhiều lần bà T không đồng ý nhận lại tiền vay. Sau khi Nguyễn Hữu T2 Sang chết, bà V cũng đã nhiều lần yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bà T cố tình gây khó khăn cho việc thực hiện quyền của người sử dụng đất.
Nay nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, cụ thể: (1) Yêu cầu hủy hợp đồng vay tài sản (hợp đồng miệng) giữa bà Hồ Thị Ngọc T và bà Hồ Thị V, đối với: Hợp đồng vay vào ngày 19-9-2016, số tiền vay 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng); Hợp đồng vay vào ngày 04-7-2017, số tiền vay 16.841.600 đồng (Mười sáu triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn sáu trăm đồng). Bà V đồng ý thanh toán số tiền nợ gốc tổng cộng là 116.841.600 đồng (Một trăm mười sáu triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn sáu trăm đồng) và lãi phát sinh từ ngày vay cho đến ngày xét xử theo quy định của pháp luật. (2) Yêu cầu bà Hồ Thị Ngọc T trả lại cho bà và anh Nguyễn Hữu Trọng Q bản chính của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O109960, được Ủy ban nhân dân huyện L (nay là Ủy ban nhân dân thành phố L) cấp ngày 09-6-1999, đứng tên ông Nguyễn Hữu L mà nguyên đơn đã giao bà T giữ giùm từ năm 2005.
Đối với yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị Ngọc H, nguyên đơn không đồng ý vì giữa bà V và bà H không xác lập bất cứ giao dịch nào, bà V cho bà H mượn diện tích đất 06m x 30m để làm Garage xe, chứ không thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà H; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như các tài liệu trong quá trình thi hành án bà T giữ là để đảm bảo thanh toán nợ vay; bà H không đưa ra được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh có thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà V và các con là Nguyễn Hữu Trọng Q, Nguyễn Hữu Trọng S, do đó đề nghị không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà H.
Tại Bản tư khai, các lời khai, cũng như tại phiên tòa bị đơn bà Hồ Thị Ngọc T (do bà Tống Thị Thu N đại diện) trình bày:
Bà T khẳng định, giữa bà và bà Hồ Thị V hoàn toàn không có thỏa thuận vay tài sản như lời khai của bà V trình bày. Số tiền 132.051.132đ theo 04 tờ biên lai nộp kèm theo bản tự khai ngày 14-5-2022 là tiền của bà Hồ Thị Ngọc H thanh toán tiền thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 06m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B, giữa bà Hồ Thị Ngọc H và bà Hồ Thị V và ông Nguyễn Hữu Trọng Q. Bà T chỉ là người đứng ra nhận số tiền chuyển nhượng tổng cộng 150.000.000 đồng từ bà H để thanh toán cho bà V các khoản tiền phải thi hành án cho các cháu là Nguyễn Hữu Trọng Q, Nguyễn Hữu Trọng S, mục đích thanh toán các khoản tiền thi hành án để sang tên và tách thửa đất cho bà H.
Thỏa thuận nêu trên được sự đồng ý của bà Hồ Thị V và các cháu Nguyễn Hữu Trọng Q, Nguyễn Hữu Trọng S, thỏa thuận không lập thành văn bản, chỉ thỏa thuận miệng. Tuy nhiên, việc thỏa thuận có người làm chứng gồm những người trong gia đình, không có mặt ông Hồ Ngọc L1 như ông L1 đã trình bày. Ngoài ra, bà T còn lấy số tiền 18.000.000 đồng (trong tổng số tiền 150.000.000 đồng mà bà H đưa cho bà), để tiến hành sửa chữa nhà cho bà V và các cháu. Tổng cộng các khoản tiền nộp thi hành án và số tiền sửa chữa nhà cho bà V là 150.000.000 đồng.
Bà T thừa nhận, hiện nay bà là người đang giữ bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 109960 đứng tên Nguyễn Hữu L, việc bà giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm để đảm bảo cho thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H và bà Hồ Thị V, cùng các cháu S, Q.
Bà T đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập giữa bà V, Nguyễn Hữu Trọng S, Nguyễn Hữu Trọng Q (bên chuyển nhượng) và Hồ Thị Ngọc H (bên nhận chuyển nhượng), đối với diện tích 6m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B.
Theo đơn khởi kiện yêu cầu độc lập, tại bản tư khai, các lời khai, cũng như tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Ngọc H (do bà Tống Thị Thu N đại diện) trình bày:
Bà H thống nhất lời trình bày của bà Hồ Thị Ngọc T. Thời điểm năm 2016, để có tiền thanh toán các khoản phải thi hành án, bà Hồ Thị Ngọc T có nhờ bà H mua giúp một phần đất của bà Hồ Thị V, Nguyễn Hữu Trọng S, Nguyễn Hữu Trọng Q, diện tích 6m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B.
Mặc dù bà H không muốn mua diện tích đất này vì diện tích đất ở xa khu trung tâm, nhưng do là chị em ruột và được bà T đứng ra nhờ mua giúp một phần đất, nên bà H đồng ý. Do chị em, nên việc thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không được lập thành văn bản, chỉ thoả thuận miệng, giá chuyển nhượng là 150.000.000 đồng, bà H giao tiền cho bà T, để bà T thanh toán tiền thi hành án cho gia đình bà V làm 02 lần, lần thứ nhất 100.000.000 đồng; lần 2 số tiền 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, cụ thể từng lần thanh toán giữa bà T và bà V thì bà H không nắm được, vì bà đã ủy thác lại cho bà T thực hiện việc thanh toán tiền chuyển nhượng. Sau khi thực hiện xong việc thanh toán, bà H đã nhận đất, đầu tư Garage, cửa cổng để xe ô tô, còn bà V giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T để thực hiện thủ tục tách thửa cho bà H.
Sau khi thi hành án xong, thì bà T là người tiến hành các thủ tục để tách thửa đất cho gia đình bà V và tách phần diện tích đất mà gia đình bà V đã chuyển nhượng cho bà H. Sau khi thực hiện xong việc tách thửa đất cho gia đình bà V, phát hiện bà V vay nợ nhiều người nên bà H yêu cầu bà V phải lập giấy tay mua bán đất. Bà V sau đó không thừa nhận và không đồng ý ký giấy tay mua bán mà còn kiểm chuyển mắng chửi bà H.
Căn cứ vào lời khai của những người làm chứng thì thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H và bà V, các anh Nguyễn Hữu Trọng Q, Nguyễn Hữu Trọng S đối với diện tích 6m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B là có thật, thoả thuận chuyển nhượng đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật như: các bên giao kết hợp đồng tự nguyện; hình thức có vi phạm nhưng các bên đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch, phù hợp với Án lệ số 55/2022/AL và Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015; nguyên đơn cho rằng thoả thuận giữa các bên là hợp đồng vay là không có căn cứ; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản nên không thể cầm cố; bị đơn tạm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là để thực hiện tách thửa; các bên đã thanh toán tiền chuyển nhượng đầy đủ; nguyên đơn đã giao đất cho bị đơn sử dụng trên thực tế nên có đủ điều kiện để công nhận hiệu lực của hợp đồng; bà H không thoả thuận mượn đất để làm G như lời khai của nguyên đơn, vì bản thân bà H có đủ điều kiện về kinh tế và chỗ ở.
Do đó, bà H giữ nguyên yêu cầu độc lập, yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bằng miệng, có sự chứng kiến của các thành viên trong gia đình) đối với quyền sử dụng đất với diện tích 6m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B, giữa bà Hồ Thị Ngọc H và bà Hồ Thị V và ông Nguyễn Hữu Trọng Q.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Hữu Trọng Q (do ông Thiêm Diên T1 đại diện) trình bày:
Anh Q thống nhất với ý kiến trình bày của bà Hồ Thị V, xác định có thoả thuận vay tiền với bà Hồ Thị Ngọc T, không thoả thuận chuyển nhượng đất với bà Hồ Thị Ngọc H, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà V; không chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H.
- Bản án sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 16/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hồ Thị V.
1.1. Chấm dứt hợp đồng vay tài sản (thoả thuận miệng) xác lập ngày 04-7-2017, số tiền vay 16.841.600 đồng và hợp đồng vay tài sản (thoả thuận miệng) xác lập ngày 19-9-2016, số tiền 100.000.000 đồng giữa anh Nguyễn Hữu Trọng S (do bà V thừa kế quyền, nghĩa vụ), anh Nguyễn Hữu Trọng Q với bà Hồ Thị Ngọc T.
1.2. Anh Nguyễn Hữu Trọng Q, bà Hồ Thị V phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán trả cho bà Hồ Thị Ngọc T số tiền 193.568.054 đồng (Một trăm chín mươi ba triệu năm trăm sáu mươi tám nghìn không trăm năm mươi bốn đồng), trong đó số tiền nợ gốc là 116.841.600 đồng, số tiền lãi là 76.726.454 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án. Lãi suất chậm trả tiền do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
1.3. Buộc bà Hồ Thị Ngọc T chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất của bà Hồ Thị V và anh Nguyễn Hữu Trọng Q, trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 109960 do Ủy ban nhân dân huyện L (cũ) cấp ngày 09-6-1999, đứng tên ông Nguyễn Hữu L đối với diện tích đất thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ tại xã B (nay thuộc thửa 112, tờ bản đồ số 32 tại phường B) cho bà Hồ Thị V và anh Nguyễn Hữu Trọng Q.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập giữa bà Hồ Thị V, Nguyễn Hữu Trọng S, Nguyễn Hữu Trọng Q (bên chuyển nhượng) và Hồ Thị Ngọc H (bên nhận chuyển nhượng), đối với diện tích 06m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự, quyền thi hành án.
* Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Về đường lối giải quyết:
Xét kháng cáo của bị đơn bà Hồ Thị Ngọc T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Ngọc H nhận thấy:
Nguyên đơn bà Hồ Thị V khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng vay tài sản; yêu cầu bị đơn bà Hồ Thị Ngọc T chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất, trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Ngọc H có yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 6m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B giữa bà H, bà V và anh Nguyễn Hữu Trọng Q. Tòa cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản; yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất; tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
* Về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa các đương sự: Bà V xác định có xác lập hợp đồng vay tài sản với bà T, tổng số tiền vay là 116.841.600đ, bà T xác định không xác lập bất cứ giao dịch gì với bà V, mà bà T chỉ đại diện cho bà H, đứng ra thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giao tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà V.
Hồ sơ vụ án thể hiện tại Biên bản về việc giải quyết thi hành án ngày 13/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh, bà T trình bày: “bà Hồ Thị Ngọc T có giúp đỡ S, Q một số tiền để thi hành án cho quyết định thi hành án số 50/QĐ ngày 26-4-2015, bên cạnh đó thì S, Q có cầm cho bà T giấy CNQSD đất số O 109960”, cũng tại Biên bản làm việc này, sau khi có ý kiến đồng ý giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Chi cục Thi hành án, bà T còn có ý kiến: “Bà Hồ Thị Ngọc T sẽ giao lại cho Cơ quan THA mượn nhưng phải đảm bảo quyền lợi về tiền vay cho bà T” (BL 258). Tòa cấp sơ thẩm dựa vào lời trình bày này của bà T để xác định có tồn tại hợp đồng vay giữa bà T và bà V, anh S, anh Q.
Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà T cung cấp chứng cứ mới là Quyết định số 198/QĐ-SGDĐT ngày 27/02/2018 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đ về việc thành lập Đoàn đánh giá ngoài Trường mầm non X, huyện C và giấy đi đường của bà T thể hiện ngày 13/3/2018 bà T đi công tác tại huyện C nên không thể có mặt tại địa phương để trình bày như nội dung biên bản ngày 13/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh. Như vậy, đây là tình tiết mới phát sinh mà cần phải xác minh làm rõ ngày 13/3/2018 bà T có đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh làm việc hay không, đến thời điểm nào, ai là người lập Biên bản này, có ghi nhận đúng theo trình bày của đương sự hay không để làm căn cứ giải quyết vụ án.
* Về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các đương sự: Người có quyền lợi, liên quan bà Hồ Thị Ngọc H xác định có thông qua bà Hồ Thị Ngọc T để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất 6m x 30m thuộc một phần thửa 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B, giữa bà Hồ Thị Ngọc H và bà Hồ Thị V, số tiền chuyển nhượng 150.000.000 đồng. Việc nhận chuyển nhượng là do cả hai vợ chồng bà H nhận chuyển nhượng (bút lục 134) nhưng Tòa cấp sơ thẩm không xác định chồng bà H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là bỏ sót tư cách tố tụng của đương sự.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 16/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập giữa bà Hồ Thị V, Nguyễn Hữu Trọng S, Nguyễn Hữu Trọng Q (bên chuyển nhượng) và bà Hồ Thị Ngọc H (bên nhận chuyển nhượng), đối với diện tích 06m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B nhưng không xử lý tài sản trên đất là nhà tiền chế, cổng, hàng rào do bà H đầu tư, xây dựng trên đất (bút lục 182, 230) là giải quyết chưa triệt để vụ án.
Từ những phân tích trên nhận thấy, Tòa cấp sơ thẩm đã bỏ sót tư cách tố tụng của đương sự, tuyên không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các đương sự nhưng không xử lý tài sản trên đất là giải quyết chưa triệt để vụ án. Đồng thời tại cấp phúc thẩm có chứng cứ mới phát sinh cần phải xác minh làm rõ để giải quyết quan hệ tranh chấp vay tài sản của các đương sự do đó cần thiết phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Đối với đường lối giải quyết vụ án sẽ được xem xét khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án sau khi đánh giá toàn diện các chứng cứ đã được thu thập đầy đủ.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308 BLTTDS hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 16/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Hồ Thị Ngọc T và bà Hồ Thị Ngọc H trong hạn luật định, đồng thời bà T, bà H cũng đã nộp tiền tạm ứng án phí đúng quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà Hồ Thị V khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng vay tài sản; yêu cầu bị đơn bà Hồ Thị Ngọc T chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất, trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Ngọc H có yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Cấp sơ thẩm thông báo thụ lý vụ án là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản; yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản; yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Khi quyết định của bản án cũng cần tuyên chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự và buộc thực hiện hay không thực hiện chứ không tuyên khác quan hệ pháp luật khi đã thông báo thụ lý vụ án.
[3]. Xét kháng cáo của các đương sự:
* Về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa các đương sự:
Bà V xác định có xác lập hợp đồng vay tài sản với bà T, tổng số tiền vay là 116.841.600đ, bà T xác định không xác lập bất cứ giao dịch gì với bà V, mà bà T chỉ đại diện cho bà H, đứng ra thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giao tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà V.
Hồ sơ vụ án thể hiện tại Biên bản về việc giải quyết thi hành án ngày 13/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh, bà T trình bày: “Bà Hồ Thị Ngọc T có giúp đỡ S, Q một số tiền để thi hành án cho quyết định thi hành án số 50/QĐ ngày 26-4-2015, bên cạnh đó thì S, Q có cầm cho bà T giấy CNQSD đất số O 109960”, cũng tại Biên bản làm việc này, sau khi có ý kiến đồng ý giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Chi cục Thi hành án, bà T còn có ý kiến: “Bà Hồ Thị Ngọc T sẽ giao lại cho Cơ quan THA mượn nhưng phải đảm bảo quyền lợi về tiền vay cho bà T” (Bút lục số 258). Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào lời trình bày này của bà T để xác định có tồn tại hợp đồng vay giữa bà T và bà V, anh S, anh Q.
Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà T cung cấp chứng cứ mới là Quyết định số 198/QĐ-SGDĐT ngày 27/02/2018 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đ về việc thành lập Đoàn đánh giá ngoài Trường mầm non X, huyện C và giấy đi đường của bà T thể hiện ngày 13/3/2018 bà T đi công tác tại huyện C nên không thể có mặt tại địa phương để trình bày như nội dung biên bản ngày 13/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh.
Như vậy, đây là tình tiết mới phát sinh mà cần phải xác minh làm rõ ngày 13/3/2018 bà T có đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh làm việc hay không, đến thời điểm nào, ai là người lập Biên bản này, có ghi nhận đúng theo ý kiến trình bày của bà T hay không để làm căn cứ giải quyết vụ án.
* Về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các đương sự:
Người có quyền lợi, liên quan bà Hồ Thị Ngọc H xác định có thông qua bà Hồ Thị Ngọc T để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất 6m x 30m thuộc một phần thửa 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại xã B (nay là phường B), thị xã L (nay là thành phố L) với bà Hồ Thị V, số tiền chuyển nhượng 150.000.000 đồng.
Tại (bút lục số 134) Đơn phản tố ngày 06/6/2022, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Ngọc H thể hiện nội dung đơn khởi kiện bà H yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bằng miệng, có sự chứng kiến của các thành viên trong gia đình) đối với quyền sử dụng đất diện tích 06m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B giữa bà Hồ Thị Ngọc H và bà Hồ Thị V và anh Nguyễn Hữu Trọng Q. Nội dung đơn thể hiện vợ chồng bà H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà H và chồng đã làm căn nhà bằng tôn để ở và để xe.
Tại (bút lục số 139) Thông báo về việc thụ lý yêu cầu độc lập ngày 09/6/2022. Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
- Tại (bút lục số 71) Bản tự khai của bà T cũng thể hiện lúc đầu vợ chồng em gái tôi không chịu mua.
- Tại (bút lục số 87) Biên bản đối chất, ngày 02/6/2022 thể hiện gia đình (gồm vợ chồng tôi, con và mẹ ruột) cùng vào sinh sống trên đất nhận chuyển nhượng.
- Tại (bút lục số 156) Văn bản trình bày ý kiến của người đại diện cho nguyên đơn và người liên quan trình bày: Trước đây do thấy bà H khó khăn về chỗ ở, khó khăn trong hoạt động xe tải nên đã cho gia đình chồng con bà H ở trên đất...
Như vậy sau khi thụ lý đơn khởi kiện độc lập của bà Hồ Thị Ngọc H đối với yêu cầu “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, cấp sơ thẩm không đưa chồng bà H là anh Phan Tiến V1, sinh năm 1979, Địa chỉ: Tổ A, KP D, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai tham gia tố tụng để nhận định về quyền lợi nghĩa vụ của các đương sự có ảnh hưởng gì đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, là thiếu sót.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 16/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập giữa bà Hồ Thị V, Nguyễn Hữu Trọng S, Nguyễn Hữu Trọng Q (bên chuyển nhượng) và bà Hồ Thị Ngọc H (bên nhận chuyển nhượng), đối với diện tích 06m x 30m thuộc một phần của thửa đất số 112, tờ bản đồ số 32 (thuộc thửa 794, tờ bản đồ số 13 cũ) tại phường B nhưng không xử lý tài sản trên đất là nhà tiền chế, cổng, hàng rào do bà H đầu tư, xây dựng trên đất (bút lục 182, 230) là giải quyết chưa triệt để vụ án.
Như vậy do đương sự cung cấp tài liệu mới tại phiên tòa và đưa thiếu tư cách tố tụng đương sự trong vụ án, chưa giải quyết tài sản trên đất nên cần phải hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.
[5]. Về án phí phúc thẩm các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm. Trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho bà Hồ Thị Ngọc T số tiền là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007078 ngày 28/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Khánh và bà Hồ Thị Ngọc H số tiền là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007077 ngày 28/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Khánh.
[6]. Về chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản; yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Hồ Thị V và bị đơn bà Hồ Thị Ngọc T.
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
3. Về án phí phúc thẩm các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm. Trả lại tiền tạm ứng án phí cho bà Hồ Thị Ngọc T số tiền là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007078 ngày 28/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Khánh và bà Hồ Thị Ngọc H số tiền là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007077 ngày 28/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Khánh.
4. Số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng các đương sự đã nộp sẽ được quyết định khi vụ án được giải quyết lại.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 84/2024/DS-PT
Số hiệu: | 84/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về