TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 94/2021/DSST NGÀY 10/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 10/9/2021 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 35/2021/TLST-DS, ngày 03/02/2021, về việc “Kiện tranh chấp HĐ vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2021/QĐST-DS ngày 06/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 115/2021/QĐST- DS ngày 24/8/2021 giữa:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Ch, sinh năm 1966. (Có mặt).
Địa chỉ: Thôn 2, xã Kh, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
Bị đơn: Ông Phạm Minh H, sinh năm 1950. (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố 10, thị trấn Đ, huyện E, tỉnh Đăk Lăk. Chổ ở hiện nay: Thôn 8, xã Kh, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1953. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.
Địa chỉ: Thôn 8, xã Kh, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Ch là nguyên đơn trình bày:
Năm 2009 ông Phạm Minh H dẫn bà Phạm Thị H đến nhà bà Ch cắt tiền cà phê non là 1.000 kg. Nhưng khi thấy bà H thì bà Ch nói với ông H là bà Ch không đồng ý cho cắt. Sau đó ông H đứng ra nói là “thôi mày đưa tao”, nên bà Ch đưa cho ông H ứng số tiền 18.500.000 đồng tương đương với 1.000 kg cà phê nhân xô, thoả thuận cuối mùa trả.
Sau khi lấy tiền xong ông H không trả 1.000 kg cà phê cho bà Ch theo thoả thuận mặc dù bà Ch đã yêu cầu nhiều lần. Đến ngày 31/12/2013 ông H viết giấy thế chấp ký xác nhận có nợ bà Ch 1.000 kg cà phê nhân xô, hẹn đến ngày 30/3/2014 dương lịch trả 500 kg, còn 500 kg trả vào cuối năm 2014. Nhưng cho đến nay ông H vẫn chưa trả cho bà Ch, nay bà Ch yêu cầu ông H trả cho bà Ch 1.000 kg cà phê nhân xô. Nợ này không liên quan gì đến bà Phạm Thị H (vợ ông H), ngoài ra bà Ch không có yêu cầu nào khác.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông H là bị đơn trình bày:
Vào khoảng năm 2009 ông H dẫn bà Nguyễn Thị H, không biết địa chỉ đến nhà bà Trần Thị Ch để nói bà Ch cho bà H ứng 1.000 kg cà phê tươi. Số tiền ứng cà phê này bà H cầm chứ ông H không cầm. Còn giấy thế chấp ghi ngày 31/12/2013 có nội dung ông H thế chấp 1 sào 2 cà phê do nợ 1.000 kg cà phê nhân xô, hẹn đến ngày 30/3/2014 dương lịch trả 500 kg và mùa cà năm 2014 trả 500 kg là không đúng. Chữ ký Phạm Minh H trong giấy thế chấp là do ông H ký, nhưng do con trai bà Ch cầm tay ông H ép ông H viết. Số cà phê này là ông H mượn cho bà H, nên ông H không đồng ý trả 1.000 kg cà phê nhân xô này cho bà Ch.
Trong quá trình giải quyết vụ án bà H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
Việc bà Ch khởi kiện yêu cầu ông H trả 1.000 kg cà phê nhân xô, bà H không biết số nợ này và bà H cũng không ký giấy nợ bà Ch. Ông H vay mượn làm gì thì ông H có trách nhiệm với bà Ch, không liên quan gì đến bà H.
Phát biểu của Kiểm sát viên:
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của đương sự tại phiên tòa thể hiện việc bà Ch khởi kiện yêu cầu ông H trả cho bà Ch 1.000 kg cà phê nhân xô là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; Điều 466 Bộ luật dân sự, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ch.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc bà Trần Thị Ch khởi kiện yêu cầu ông Phạm Minh H trả 1.000 kg cà phê nhân xô tại Tòa án và Tòa án thụ lý giải quyết về tranh chấp HĐ vay tài sản là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Ch cung cấp giấy thế chấp đề ngày 31/12/2013 có nội dung ông H mượn bà Chế 1.000 kg cà phê nhân xô từ năm 2009, hẹn đến ngày 30/3/2014 dương lịch trả 500 kg và mùa cà năm 2014 trả 500 kg có chữ ký xác nhận nợ của ông H, qua làm việc với ông H, ông H thừa nhận chữ ký trong giấy thế chấp là do ông H ký, nhưng do con bà Ch ép ký và ông H cho rằng số cà phê này ông H mượn cho bà H, nhưng ông H không biết địa chỉ bà H ở đâu. Do ông H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh cho yêu cầu của mình, nên yêu cầu này của ông H không được chấp nhận.
Như vậy, có đủ căn cứ khẳng định, tại giấy thế chấp do bà Ch cung cấp thì ông H nợ bà Ch 1.000 kg cà phê nhân xô, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng vay tài sản” được quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự và ông H cũng đã thừa nhận do ông H ký vào giấy thế chấp nợ, nên thuộc trường hợp những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình thực hiện hợp đồng, đến hạn trả nợ nhưng ông H không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên vay tài sản được quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự. Từ những phân tích trên, xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và yêu cầu khởi kiện của bà Ch là có căn cứ, nên cần chấp nhận Đối với bà Phạm Thị H vợ ông H: Bà H cho rằng số cà phê mà ông H nợ bà Ch không liên quan gì đến bà H, giấy nợ cũng không thể hiện việc bà H ký và bà Ch cũng đã thừa nhận nợ này không liên quan gì đến bà H, nên không thể buộc bà H liên đới cùng ông H trả nợ cho bà Ch.
[3]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà Ch được chấp nhận, nên cần buộc ông H phải chịu toàn bộ tiền án phí DSST theo quy định của pháp luật. Ông H thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí DSST.
Trả lại cho bà Ch tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 463; Điều 466 Bộ luật dân sự;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ch.
Buộc ông Phạm Minh H trả cho bà Trần Thị Ch 1.000 kg cà phê nhân xô (một nghìn ki lô gam).
Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 6 Điều 19 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Trả lại cho bà Ch 812.500 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2019/0012455 ngày 28/01/2021.
Ông Phạm Minh H thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí DSST theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 94/2021/DSST
Số hiệu: | 94/2021/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về