Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 93/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BN ÁN 93/2020/DS-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2020/DSST, ngày 05 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2020/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 7 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2020/QĐST-DS, ngày 16 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Võ Thị S, sinh năm: 1968.

Địa chỉ: ấp LH 1, xã LP, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

- Bị đơn: Trần Thị S, sinh năm: 1973.

Nguyễn Văn T Cùng địa chỉ: ấp Long Bình 1, xã Long Phú, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Võ Thị S trình bày: Vào năm 2016 bà có cho vợ chồng ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị S vay 110.000.000 đồng, cụ thể: Ngày 20/10/2016 vay 60.000.000 đồng; ngày 06/10/2016 vay 20.000.000 đồng; ngày 29/10/2016 vay 20.000.000 đồng; ngày 20/11/2016 vay 10.000.000 đồng. Lãi suất thỏa thuận 5%/tháng, thời hạn vay khi nào bà S cần thì sẽ cho hay trước 01 tháng. Ông T, bà S đã đóng lãi được 03 tháng với số tiền 15.000.000 đồng. Bà S đã yêu cầu ông T, bà S trả nợ nhiều lần nhưng không thực hiện.

Nay nguyên đơn Võ Thị S yêu cầu ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị S trả số tiền 110.000.000 đồng, và yêu cầu tính lãi suất kể từ tháng 3/2017.

Tại văn bản ngày 18/5/2020 bà Trần Thị S trình bày: Bà thừa nhận có vay của bà S số tiền 110.000.000 đồng, vay nhiều lần cụ thể: Ngày 20/10/2016 vay 60.000.000 đồng; ngày 06/10/2016 vay 20.000.000 đồng; 29/10/2016 vay 20.000.000 đồng; ngày 20/11/2016 vay 10.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 5%/tháng, bà S đã đóng lãi được 55.000.000 đồng, nhưng việc đóng lãi bà S không có làm biên nhận. Nay bà S yêu cầu trả 110.000.000 đồng tiền vốn và lãi suất phát sinh từ tháng 3/2017 bà cũng đồng ý.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần để trình bày ý kiến, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án không ghi được lời khai của bị đơn Nguyễn Văn T.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi tòa án thụ lý vụ án đến nay Thẩm phán được phân công đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, gửi quyết định xét xử cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo thủ tục quy định về phiên toà sơ thẩm. Đối với các đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70,71 Bộ luật tố tụng dân sự, đối với bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Long Mỹ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn Nguyễn Văn T, Trần Thị S trả cho nguyên đơn Phạm Thị Mai số tiền 107.089.067 đồng (trong đó tiền vốn 100.000.000 đồng và tiền lãi 7.089.067 đồng). Buộc bị đơn Trần Thị S trả cho nguyên đơn Phạm Thị Mai số tiền 13.596.667 đồng (trong đó tiền vốn 10.000.000 đồng và tiền lãi 3.596.667 đồng). Về án phí các bị đơn phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng dân sự - vay tài sản” theo Điều 26, Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn Nguyễn Văn T, Trần Thị S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt các bị đơn.

[3] Về nội dung: Vào các ngày 06/10/2016, 20/10/2016, 29/10/2016, 20/11/2016 bà Võ Thị S có cho ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị S vay 110.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 5%/tháng. Do ông T, bà S không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên hai bên phát sinh tranh chấp.

[3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu các bị đơn trả số tiền vay 110.000.000 đồng:

Căn cứ vào biên nhận nợ gốc các ngày 19/11/2016 (dương lịch) do nguyên đơn cung cấp có chữ ký của bị đơn Nguyễn Văn T và Trần Thị S với số tiền 100.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xác nhận ông T, bà S có vay 100.000.000 đồng của bà Mai là đúng sự thật theo quy định tại Điều 92, Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đây là tình tiết sự kiện không cần chứng minh. Trong quá trình giải quyết vụ án bà S, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt không lý do, xem như bị đơn đã từ bỏ quyền chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xét thấy việc ông T, bà S chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Do đó việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông T, bà S trả số tiền còn nợ 100.000.000 đồng là có cở sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 466 Bộ Luật dân sự năm 2015.

Đối với số tiền 10.000.000 đồng bà S yêu cầu ông T, bà S trả. Khoản vay này hai bên tin tưởng nên không làm giấy tờ, Tuy nhiên bà S không cung cấp được chứng cứ chứng minh ông T có vay khoản tiền trên, trong quá trình giải quyết vụ án bà S thừa nhận có vay và còn nợ 10.000.000 đồng ngày 20/11/2016 như bà S đã trình bày, căn cứ vào sự thừa nhận của bà S, Hội đồng xét xử buộc bà S có nghĩa vụ phải trả 10.000.000 đồng cho nguyên đơn Võ Thị S.

[3.2] Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 “lãi suất vay do các bên thỏa thuận”. Xét giấy vay tiền do các đương sự lập thì không ghi nhận về mức lãi suất vay là bao nhiêu. Tuy nhiên, tại phiên tòa nguyên đơn thừa nhận bị đơn đã đóng lãi được 15.000.000 đồng của các khoản vay ngày 06/10/2016, 20/10/2016, 29/10/2016 và yêu cầu bị đơn trả lãi suất theo quy định pháp luật 0.83%/tháng kể từ ngày vay. Bị đơn Trần Thị S cho rằng đã đóng lãi được 55.000.000 đồng, nhưng không có chứng cứ chứng minh, nên không được chấp nhận.

Xét thấy, mức lãi suất nguyên đơn yêu cầu là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với khoản vay 20.000.000 đồng vào ngày 06/10/2016 (âl) tức ngày 05/11/2016 (dl) đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm ngày 28/7/2020 là: 20.000.000 đồng x 0.83% x 44 tháng 23 ngày = 7.431.267 đồng.

Đối với khoản vay 60.000.000 đồng vào ngày 20/10/2016 (âl) tức ngày 19/11/2016 (dl) đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm ngày 28/7/2020 là: 20.000.000 đồng x 0.83% x 44 tháng 09 ngày = 7.353.800 đồng.

Đối với khoản vay 20.000.000 đồng vào ngày 29/10/2016 (âl) tức ngày 28/11/2016 (dl) đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm ngày 28/7/2020 là: 20.000.000 đồng x 0.83% x 44 tháng = 7.304.000 đồng.

Đối với khoản vay 10.000.000 đồng vào ngày 20/11/2016 (âl) tức ngày 18/12/2016 (dl) đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm ngày 28/7/2020 là: 20.000.000 đồng x 0.83% x 43 tháng 07 ngày = 3.596.667 đồng.

Tổng số tiền lãi bị đơn Nguyễn Văn T, Trần Thị S phải trả là 22.089.067 đồng, bị đơn đã trả lãi 15.000.000 đồng nên được khấu trừ lại. 22.089.067 đồng – 15.000.000 đồng = 7.089.067 đồng.

Tổng cộng vốn và lãi bị đơn Nguyễn Văn T, Trần Thị S phải trả là:

100.000.000 đồng + 7.089.067 đồng = 107.089.067 đồng.

Bị đơn Trần Thị S phải trả 10.000.000 đồng tiền vốn và 3.596.667 đồng lãi suất phát sinh.

[3] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn Nguyễn Văn T, Trần Thị S phải chịu theo quy định pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26; Điều 35, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 463, Điều 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Võ Thị S.

[2] Buộc bị đơn Nguyễn Văn T, Trần Thị S liên đới trả cho nguyên đơn Phạm Thị Mai số tiền 107.089.067 đồng (trong đó tiền vốn 100.000.000 đồng và tiền lãi 7.089.067 đồng).

Buộc bị đơn Trần Thị S trả cho nguyên đơn Võ Thị S số tiền 13.596.667 đồng (trong đó tiền vốn 10.000.000 đồng và tiền lãi 3.596.667 đồng).

[3] Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn Nguyễn Văn T phải nộp số tiền 2.677.226 đồng (Hai triệu, sáu trăm bảy mươi bảy nghìn, hai trăm hai sáu đồng đồng).

Bị đơn Trần Thị S phải nộp số tiền 3.357.059 đồng (Ba triệu, ba trăm năm mươi bảy nghìn, không trăm năm chín đồng).

Nguyên đơn Võ Thị S được nhận lại 2.750.000 đồng (Hai triệu, bảy trăm năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000380 phiếu lập ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Long Mỹ.

[5] Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a,7b và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6] Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/7/2020). Bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã, phường nơi các bị đơn cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 93/2020/DS-ST

Số hiệu:93/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;