TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 91/2022/DS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 29/9/2022 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 230/2022/TLST-DS, ngày 20/6/2022, về việc “Kiện tranh chấp HĐ vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2022/QĐST-DS ngày 12/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 87/2022/QĐST-DS ngày 31/8/2022 giữa:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1962. Có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Thôn 5, xã C, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
Bị đơn: Bà Trần Thị Ngọc S. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Địa chỉ: Thôn 2, xã C, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án ông X là nguyên đơn trình bày:
Ngày 18/5/2020 ông X cho bà S mượn 1.800 kg cà phê nhân xô, trong ngày 22/5/2020 ông X tiếp tục cho bà S mượn 01 lần 200 kg cà phên nhân xô và 01 lần 500 kg cà phê nhân xô. Tổng cộng ông X cho bà S mượn 2.500 kg cà phê nhân xô, bà S ký giấy xác nhận nợ và hẹn trả nợ vào tháng 11/2020, nhưng từ đó cho đến nay bà S vẫn chưa trả nợ này cho ông X.
Nay ông X yêu cầu bà S trả cho ông X 2.000 kg cà phê nhân xô, ông X xin rút yêu cầu khởi kiện đối với 500 kg cà phê nhân xô.
Ngoài ra, ông X không có yêu cầu nào khác.
Quá trình xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ bà S là bị đơn: Cố tình lẩn tránh, không hợp tác nên không ghi nhận được ý kiến của bà S và bà S cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông X.
Phát biểu của Kiểm sát viên:
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của đương sự do chủ tọa phiên tòa đã công bố tại phiên tòa thể hiện việc ông X khởi kiện yêu cầu bà S trả cho ông X 2.000 kg cà phê nhân xô là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; Điều 466 Bộ luật dân sự, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông X.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc ông Nguyễn Văn X khởi kiện bà Trần Thị Ngọc S tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết về tranh chấp HĐ vay tài sản là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập bà S đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng bà S vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi bà S cư trú. Theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và căn cứ khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự thì được coi là bị đơn cố tình giấu địa chỉ. Căn cứ khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2]. Về nội dung: Ngày 18/5/2020 ông X cho bà S mượn 1.800 kg cà phê nhân xô, trong ngày 22/5/2020 ông X tiếp tục cho bà S mượn 01 lần 200 kg cà phên nhân xô và 01 lần 500 kg cà phê nhân xô. Tổng cộng ông X cho bà S mượn 2.500 kg cà phê nhân xô, thời hạn trả nợ tháng 11/2020, nhưng từ đó cho đến nay bà S cố tình trốn tránh không trả nợ cho ông X. Nay ông X yêu cầu bà S trả 2.000 kg cà phê nhân xô. Đối với 500 kg cà phê nhân xô còn lại ông X đã có đơn xin rút yêu cầu này.
Mặc dù không ghi nhận được ý kiến của bà S về yêu cầu khởi kiện của ông X. Tuy nhiên, tại Kết luận giám định số: 769/KL-KTHS ngày 30/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ ký, chữ viết mang tên S ở hàng thứ 1, 2, 5 tính từ dưới lên trên tài liệu cần giám định kí hiệu A2 (giấy mượn cà phê đề ngày 18/5/2020) so với chữ ký, chữ viết mang tên Trần Thị Ngọc S trên tài liệu mẫu so sánh kí hiệu M1, M2 do cùng một người ký và viết ra.
Như vậy, có đủ căn cứ khẳng định, vào ngày 18/5/2020 và ngày 22/5/2020 ông X cho bà S mượn 2.000 kg cà phê nhân xô, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng vay tài sản”, về điều kiện, mục đích, nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại các Điều 117, Điều 118, Điều 119 và Điều 463 Bộ luật dân sự.
Quá trình thực hiện hợp đồng, ông X đã đến đòi nợ nhưng bà S không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên vay tài sản được quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự. Từ những phân tích trên, xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và yêu cầu khởi kiện của ông X là có căn cứ, nên cần chấp nhận.
[3]. Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, ông X yêu cầu bà S trả 500 kg cà phê nhân xô mượn vào ngày 22/5/2020. Đến ngày 25/7/2022 ông X đã có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với 500 kg cà phê nhân xô mượn vào ngày 22/5/2020. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của ông X là tự nguyện phù hợp với khoản 2 Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, cần chấp nhận.
[4]. Về án phí và chi phí tố tụng khác: Do yêu cầu khởi kiện của ông X được chấp nhận, nên buộc bà S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
Giá cà phê nhân xô tại thời điểm xét xử là 47.400 đồng/kg (2.000 kg x 47.400 đồng/kg) = 94.800.000 đồng.
Tiền án phí DSST là (94.800.000 đồng x 5%) = 4.740.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 463; Điều 466 Bộ luật dân sự;
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn X.
Buộc bà Trần Thị Ngọc S trả cho ông Nguyễn Văn X 2.000 kg cà phê nhân xô (hai nghìn ki lô gam).
Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu 500 kg cà phân nhân xô đã rút.
Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 159; khoản 2 Điều 161; khoản 1 Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tiền chi phí giám định đã được giải quyết tại bản án số 86/2022/DSST ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo.
Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 6 Điều 19; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Bà Trần Thị Ngọc S phải chịu 4.740.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn X 2.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số 60AA/2021/0000985 ngày 16/6/2022.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 91/2022/DS-ST về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 91/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về