Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 78/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 78/2021/DS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 31/2021/TLST-DS ngày 03 tháng 02 năm 2021 về “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 258/2021/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 227/2021/QĐST-DS ngày 28 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần K (sau đây được viết tắt là Ngân hàng K); địa chỉ: số A, đường P, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Ngưi đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Mai Quốc B, chức vụ: Phó Phòng khách hàng cá nhân Ngân hàng Thương mại cổ phần K – Chi nhánh A; địa chỉ: số B, đường L, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; là người đại diện theo ủy quyền (theo Quyết định số 1418/QĐ-NHKL ngày 01/7/2020 của Tổng Giám đốc Ngân hàng K; Giấy ủy quyền số 09/UQ-CNAG ngày 01/01/2021 của Giám đốc Ngân hàng K – chi nhánh A); có mặt.

Bị đơn:

- Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

- Bà Nguyễn Thị Huyền L, sinh năm 1972; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn Quốc V, sinh năm 1995; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Em Nguyễn Thị Hoàng K, sinh ngày 17/7/2005; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Em Nguyễn Quốc A, sinh ngày 01/7/2015; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

Ngưi đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các Em Nguyễn Th Hoàng K, Nguyễn Quốc A: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 và Bà Nguyễn Thị Huyền L, sinh năm 1972; cùng địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; là cha mẹ của các Em K, Anh; là người đại diện theo pháp luật; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng, vào ngày 03/10/2019, Ngân hàng Thương mại cổ phần K – chi nhánh A (sau đây được viết tắt là Chi nhánh Ngân hàng) và Ông Nguyễn Văn H, Bà Nguyễn Thị Huyền L đã ký kết hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200-2552 ngày 03/10/2019 và giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 1148/19/KUNN/1200-2552 ngày 03/10/2019. Theo đó, Chi nhánh Ngân hàng cho ông H, bà L vay số tiền 100.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng; lãi suất 13,6%/năm, được điều chỉnh 03 tháng/lần, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay ngay trước thời điểm chuyển nợ quá hạn; mức phạt chậm trả lãi 10%/năm; hình thức thanh toán trả nợ gốc cuối kỳ, trả lãi 04 tháng/lần trên dư nợ thực tế vào ngày 03, kỳ trả nợ đầu tiên ngày 03/02/2020.

Để đảm bảo khoản vay, bị đơn đã thế chấp tài sản theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 987/18/HĐTC-BĐS/1200-5335 giữa Chi nhánh Ngân hàng với ông H, bà L, được Phòng Công chứng L chứng nhận ngày 06/9/2018 đối với quyền sử dụng đất diện tích 103,8m2, tọa lạc ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02135 ngày 14/7/2014 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh An Giang cấp cho ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L.

Ngân hàng đã giải ngân cho ông H, bà L số nợ vay 100.000.000 đồng vào ngày 03/10/2019. Sau khi vay, ông H, bà L trả lãi được 02 kỳ vào các ngày 03/02/2020 và ngày 03/6/2020 rồi ngưng không tiếp tục trả nợ lãi, nợ vốn cho Ngân hàng.

Tính đến ngày 14/01/2021, ông H, bà L đã trả được cho Ngân hàng nợ lãi 9.095.275 đồng; còn nợ gốc 100.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 4.495.342 đồng, tiền phạt nợ quá hạn 5.672.055 đồng, tiền phạt chậm trả lãi 126.855 đồng.

Ngân hàng đã gửi nhiều thông báo, công văn yêu cầu ông H, bà L trả nợ và bàn giao tài sản bảo đảm để xử lý theo đúng quy định nhưng phía ông H, bà L không thực hiện theo yêu cầu, có biểu hiện kéo dài thời gian và cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.

Vì vậy, Ngân hàng yêu cầu ông H, bà L thực hiện nghĩa vụ trả cho Ngân hàng khoản nợ với số tiền tạm tính đến hết ngày 14/01/2021 là 110.294.252 đồng; trong đó, nợ gốc 100.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 4.495.342 đồng, nợ lãi quá hạn 5.672.055 đồng, tiền phạt chậm trả lãi 126.855 đồng; buộc ông H, bà L phải tiếp tục trả các khoản tiền phát sinh trên dư nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200-2552 ngày 03/10/2019 kể t ngày 15/01/2021 cho đến khi thanh toán dứt nợ; tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 987/18/HĐTC-BĐS/1200-5335 ngày 06/9/2018 để đảm bảo thi hành án.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: Hợp đồng cấp tín dụng nguyên tắc số 987/18/HĐNT/1200- 5335 ngày 06/9/2018, hợp đồng cấp tín dụng t ng lần số 1148/19/HĐTD/1200- 2552 ngày 03/10/2019, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 987/18/HĐTC - BĐS/1200-5335 ngày 06/9/2018 giữa Chi nhánh Ngân hàng với ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L (bản sao); giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02135 ngày 14/7/2014 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh An Giang cấp cho ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L (bản sao); giấy đề nghị vay vốn ngày 11/9/2019, giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 1148/19/KUNN/1200-2552 ngày 03/10/2019 của ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L (bản sao) và các giấy tờ khác có liên quan.

- Theo lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Th Huyền L và cũng là người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các em Nguyễn Th Hoàng K, Nguyễn Quốc A, trình bày, vào ngày 03/10/2019, Chi nhánh Ngân hàng và vợ chồng ông H, bà L đã ký kết hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200-2552 và giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 1148/19/KUNN/1200-2552 ngày 03/10/2019.

Để đảm bảo khoản vay, ông H, bà L đã thế chấp tài sản theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 987/18/HĐTC-BĐS/1200-5335 giữa Chi nhánh Ngân hàng với ông H, bà L, được Phòng Công chứng L chứng nhận ngày 06/9/2018 đối với quyền sử dụng đất diện tích 103,8m2, tọa lạc ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02135 ngày 14/7/2014 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh An Giang cấp cho ông H, bà L.

Chi nhánh Ngân hàng đã giải ngân cho ông H, bà L số nợ vay 100.000.000 đồng vào ngày 03/10/2019. Sau khi vay, ông H, bà L trả lãi được 02 kỳ vào các ngày 03/02/2020 và ngày 03/6/2020 rồi ngưng không tiếp tục trả nợ lãi, nợ vốn cho Ngân hàng.

Tính đến ngày 14/01/2021, ông H, bà L đã trả được cho Ngân hàng nợ lãi 9.095.275 đồng; còn nợ gốc 100.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 4.495.342 đồng, tiền phạt nợ quá hạn 5.672.055 đồng, tiền phạt chậm trả lãi 126.855 đồng như phía Ngân hàng trình bày. Ngân hàng đã nhiều lần gửi văn bản yêu cầu ông H, bà L trả nợ nhưng do không có khả năng nên ông H, bà L vẫn chưa trả thêm nợ lãi và nợ gốc.

Ông H, bà L thống nhất với yêu cầu kiện của Ngân hàng và chấp nhận trả số nợ theo đơn khởi kiện của Ngân hàng nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên xin trả nợ vốn mỗi quý 25.000.000 đồng và tiền lãi theo thỏa thuận trên số nợ gốc này cho đến khi dứt nợ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn Quốc V vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa,

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày ý kiến như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Đồng thời, yêu cầu ông H, bà L trả cho Ngân hàng K số nợ tạm tính đến hết ngày 16/6/2021 là 118.908.166 đồng; trong đó, nợ gốc 100.000.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 4.495.342 đồng, lãi quá hạn 14.097.534 đồng, lãi phạt chậm trả lãi 315.290 đồng; tiền lãi phát sinh trên số dư nợ gốc từ ngày 17/6/2021 theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200-2552 ngày 03/10/2019, kể từ ngày 17/6/2021 cho đến khi thanh toán dứt nợ; tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 987/18/HĐTC-BĐS/1200-5335 ngày 06/9/2018 để đảm bảo thi hành án.

- Ý kiến của ông H, bà L: Ông H, bà L cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không còn tài liệu, chứng cứ nào khác giao nộp cho Tòa án.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn Quốc V, các em Nguyễn Thị Hoàng K, Nguyễn Quốc A vắng mặt tại phiên tòa không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với q uy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về hướng giải quyết vụ án: Hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200- 2552 ngày 03/10/2019 giữa Ngân hàng với ông H, bà L được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận. Do Ông H, bà L vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông H, bà L trả nợ là phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự.

Về biện pháp bảo đảm, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa Ngân hàng và ông H, bà L được công chứng, đăng ký theo quy định pháp luật nên Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mãi tài sản thế chấp theo quy định pháp luật dân sự về giao dịch bảo đảm.

Anh Nguyễn Văn Quốc V đang sống trong căn nhà trên quyền sử dụng đất thế chấp, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên quyền lợi của anh V không được xem xét, giải quyết.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 463, 466, 468, 323 Bộ luật Dân sự, các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng, các Điều 56, 58 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, công nhận hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với ông H, bà L; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng; buộc ông H, bà L trả cho Ngân hàng nợ gốc 100.000.000.000 đồng, lãi trong hạn 4.495.342 đồng, lãi quá hạn 14.097.534 đồng, phạt chậm trả lãi 315.290 đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký kết; Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng K khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L trả nợ vay. ông H, bà L đang cư trú trên địa bàn huyện C nên yêu cầu kiện của Ngân hàng K thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi phiên tòa được mở, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn Quốc V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng anh V vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh V theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung:

[3] Về việc xác lập và thực hiện hợp đồng vay tài sản:

Hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200-2552 ngày 03/10/2019, giữa Ngân hàng K - Chi nhánh An Giang với ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L được ký kết trên cơ sở tự nguyện, hình thức và nội dung hợp đồng phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được ký kết.

Về thực hiện hợp đồng, trên cơ sở hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200-2552 ngày 03/10/2019, ông H, bà L được Ngân hàng K giải ngân số tiền 100.000.000.000 đồng thông qua giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 1148/19/KUNN/1200-2552 ngày 03/10/2019. Sau khi vay, ông H, bà L trả lãi được 02 kỳ vào các ngày 03/02/2020 và ngày 03/6/2020 với số tiền 9.095.275 đồng rồi ngưng không tiếp tục trả nợ lãi, nợ vốn. Cho nên, tạm tính đến hết ngày 16/6/2021, ông H, bà L còn nợ Ngân hàng K vốn gốc 100.000.000.000 đồng, lãi trong hạn 4.495.342 đồng, lãi quá hạn 14.097.534 đồng, lãi phạt chậm trả lãi 315.290 đồng.

[4] Về biện pháp bảo đảm:

Để đảm bảo khoản vay, ông H, bà L đã thế chấp cho Chi nhánh Ngân hàng quyền sử dụng đất diện tích 103,8m2, thửa đất số 66, tờ bản đồ số 27, tọa lạc ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02135 ngày 14/7/2014 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh An Giang cấp cho ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L, theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 987/18/HĐTC- BĐS/1200-5335 ngày 06/9/2018, được Văn phòng Công chứng Long Xuyên chứng nhận ngày 06/9/2018 và được đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai – chi nhánh C ngày 07/9/2018. Xét hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất được xác lập trên cơ sở tự nguyện, nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại các Điều 317, 318, 319 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được ký kết.

[5] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Do ông H, bà L vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng K khởi kiện yêu cầu ông H, bà L trả nợ là phù hợp với nội dung hợp đồng tín dụng đã ký kết, quy định tại các Điều 466, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; yêu cầu duy trì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đã ký kết để đảm bảo thi hành án là phù hợp với nội dung hợp đồng thế chấp đã ký kết, quy định tại các Điều 293, 299, 320, 323 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Vì vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng K; buộc ông H, bà L trả cho Ngân hàng K nợ vốn 100.000.000.000 đồng và nợ lãi tạm tính đến hết ngày 16/6/2021 là 18.908.166 đồng, trong đó, nợ lãi trong hạn 4.495.342 đồng, nợ lãi quá hạn 14.097.534 đồng, lãi phạt chậm trả lãi 315.290 đồng và tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200-2552 ngày 03/10/2019, kể t ngày 17/6/2021 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ; duy trì việc thế chấp quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 987/18/HĐTC-BĐS/1200-5335 ngày 06/9/2018 giữa Chi nhánh A với ông H, bà L để đảm bảo việc thi hành án. [6] Về chi phí tố tụng:

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Ngân hàng đã tạm tứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ với số tiền 400.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận nên buộc ông H, bà L hoàn trả cho Ngân hàng 400.000 đồng tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông H, bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng K là 5.945.408 đồng.

Ngân hàng K không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho Ngân hàng K số tiền tạm ứng án phí 2.757.000 đồng mà Ngân hàng K đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 293, 299, 317, 318, 319, 320, 323, 463, 466, 470 ộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 91, 95 Luật các Tổ chức tín dụng năm 20 10; các Điều 147, 157, 158, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần K.

Buộc ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần K nợ vốn và lãi của khoản vay như sau:

- Tiền lãi tính đến hết ngày 16/6/2021: 18.908.166 (mười tám triệu, chín trăm lẻ tám nghìn, một trăm sáu mươi sáu) đồng, trong đó, lãi trong hạn 4.495.342 (bốn triệu, bốn trăm chín mươi lăm nghìn, ba trăm bốn mươi hai) đồng, tiền lãi quá hạn 14.097.534 (mười bốn triệu, không trăm chín mươi bảy nghìn, năm trăm ba mươi bốn) đồng, lãi phạt chậm trả lãi 315.290 (ba trăm mười lăm nghìn, hai trăm chín mươi) đồng ;

- Vốn gốc: 100.000.000 (một trăm triệu) đồng và tiền lãi phát sinh đối với số dư nợ gốc còn lại theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 1148/19/HĐTD/1200-2552 ngày 03/10/2019 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần K – Chi nhánh A và ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L, kể t ngày 17/6/2021 cho đến khi thanh toán xong nợ.

Duy trì việc thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 987/18/HĐTC-BĐS/1200-5335 ngày 06/9/2018 được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần K - chi nhánh A với ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L, được Văn phòng Công chứng L chứng nhận số 2130, quyển số 16TP/CC- SCC/HĐGD ngày 06/9/2018 và được đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai – chi nhánh C ngày 07/9/2018 đối với quyền sử dụng đất diện tích 103,8m2, thửa đất số 66, tờ bản đồ số 27, tọa lạc ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02135 ngày 14/7/2014 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh An Giang cấp cho ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L, để đảm bảo cho việc thi hành án.

2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ:

Buộc ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần K tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ với số tiền 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L phải chịu 5.945.408 (năm triệu, chín trăm bốn mươi lăm nghìn, bốn trăm lẻ tám) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng Thương mại cổ phần K không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần K số tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.757.000 (hai triệu, bảy trăm năm mươi bảy nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2019/0006022 ngày 02 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

4. Trong hạn 15 ngày kể t ngày tuyên án, Ngân hàng Thương mại cổ phần K, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Huyền L, người đại diện hợp pháp của em Nguyễn Thị Hoàng K, em Nguyễn Quốc A có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của anh Nguyễn Văn Quốc V được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc b cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 78/2021/DS-ST

Số hiệu:78/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;