Bản án 63/2023/DS-ST về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 63/2023/DS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/2023/TLST-DS ngày 12 tháng 6 năm 2023 về “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 195/2023/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ L , sinh năm 1988

Địa chỉ: khu phố H, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Anh Trần Văn K , sinh năm 1975 và chị Từ Bích N , sinh năm 1981

Địa chỉ: khu phố B, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hoàng N1 (chồng chị L ), sinh năm 1986 Địa chỉ: khu phố H, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của anh N1: Chị Nguyễn Thị Mỹ L , sinh năm 1988.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ L trình bày: Vì là chỗ bạn bè thân thiết, ngày 01/3/2021 chị có cho vợ chồng anh K , chị N vay số tiền 125.000.000đồng, hẹn 6 tháng đến ngày 01/9/2021 sẽ trả gốc và lãi là 150.000.000đồng. Vợ chồng anh K có thế chấp cho chị quyền sử dụng đất đứng tên anh K . Đến hẹn không trả, chị đã yêu cầu nhiều lần nhưng vợ chồng anh K chỉ hứa hẹn mà không trả. Chị khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh K có nghĩa vụ trả lại chị số tiền vay gốc là 150.000.000đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 01/3/2023 là 27 tháng x 4.200.000đồng = 113.400.000đồng và tiếp tục tính lãi suất chậm trả cho đến khi án có hiệu lực. Khi nào vợ chồng anh K thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền cho chị thì chị sẽ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh K .

* Bị đơn anh Trần Văn K trình bày: Anh thừa nhận vợ chồng anh chị có vay của chị L số tiền 125.000.000đồng theo biên nhận ngày 01/3/2021. Do làm ăn khó khăn nên từ khi vay đến nay vợ chồng anh chưa trả được gốc và lãi cho chị L . Nay chị L khởi kiện thì anh thống nhất số nợ gốc là 125.000.000đồng, còn tiền lãi thì anh xin chị L giảm bớt còn 65.000.000đồng, tổng cộng gốc và lãi là 190.000.000đồng. Đồng thời anh xin trả làm 2 lần, lần đầu ngày 31/01/2024 sẽ trả 50.000.000đồng, lần hai ngày 31/12/2024 sẽ trả 140.000.000đồng.

* Bị đơn chị Từ Bích N vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, không có lời trình bày.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Hoàng N1 thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của vợ là chị L .

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Nguyên đơn chị L xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể chị yêu cầu vợ chồng anh K có nghĩa vụ trả lại chị số tiền vay gốc là 125.000.000đồng, tiền lãi là 65.000.000đồng, tổng cộng gốc và lãi là 190.000.000đồng.

- Bị đơn anh K đồng ý trả nợ gốc là 125.000.000đồng, tiền lãi là 65.000.000đồng, tổng cộng gốc và lãi là 190.000.000đồng. Do hoàn cảnh khó khăn anh xin trả dần làm 2 lần, lần đầu ngày 31/01/2024 sẽ trả 50.000.000đồng, lần hai ngày 31/12/2024 sẽ trả 140.000.000đồng.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Về thủ tục tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị L đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn anh K vắng mặt tại phiên họp lần thứ 2, chị N vắng mặt tại phiên họp và phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ L khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh Trần Văn K , chị Từ Bích N trả lại số tiền vay hai bên thỏa thuận với nhau. Do đó theo Điều 463 Bộ luật Dân sự và khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự, quan hệ pháp luật trong vụ án này là “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

[2] Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn anh Trần Văn K , chị Từ Bích N vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng chị N vắng mặt lần thứ hai không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị N .

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị L xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: chị L xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền vay gốc và tiền lãi theo đơn khởi kiện, chỉ yêu cầu vợ chồng anh K có nghĩa vụ trả lại chị số tiền vay gốc là 125.000.000đồng và tiền lãi là 65.000.000đồng. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu này là tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu này theo Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Chị L khởi kiện cho rằng vợ chồng anh K , chị N vay tiền ngày 01/3/2021, số tiền 125.000.000đồng, hẹn 6 tháng đến ngày 01/9/2021 sẽ trả gốc và lãi là 150.000.000đồng. Đến hẹn không trả, chị đã yêu cầu nhiều lần nhưng vợ chồng anh K chỉ hứa hẹn mà không trả nên chị khởi kiện.

Hội đồng xét xử xét thấy, căn cứ quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự về nghĩa vụ chứng minh, biên nhận nợ ngày 01/3/2021, lời khai của các đương sự và lời trình bày tại phiên tòa sơ thẩm có đủ cơ sở để kết luận hiện nay vợ chồng anh K , chị N còn nợ chị L số tiền vay gốc là 125.000.000đồng (bút lục 04, 30). Đây là những tình tiết, sự kiện được các đương sự thừa nhận, không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời tại phiên tòa sơ thẩm, chị L và anh K thống nhất số tiền vay gốc là 125.000.000đồng, tiền lãi là 65.000.000đồng, tổng cộng gốc và lãi là 190.000.000đồng. Xét thấy yêu cầu khởi kiện của chị L là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[5] Đối với ý kiến của anh K cho rằng do hoàn cảnh khó khăn nên xin trả làm 2 lần, lần đầu ngày 31/01/2024 sẽ trả 50.000.000đồng, lần hai ngày 31/12/2024 sẽ trả 140.000.000đồng. Tuy nhiên chị L không đồng ý phương thức và thời gian trả nợ của anh K . Hội đồng xét xử đã giải thích, động viên đương sự thương lượng, thỏa thuận nhưng không thống nhất được với nhau. Mặt khác, theo quy định Tòa án không ấn định trong bản án, quyết định thời điểm hoặc thời hạn bên có nghĩa vụ thi hành án. Do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận ý kiến của anh K xin trả dần. Trường hợp anh K , chị N thực sự khó khăn, không có khả năng trả một lần thì có thể làm đơn để cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.

[6] Từ những nhận định trên, sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử nghị án nên chấp nhận ý kiến đề xuất của Kiểm sát viên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị L , buộc vợ chồng anh K , chị N phải trả cho chị L tổng số tiền là 190.000.000đồng, trong đó tiền vay gốc là 125.000.000đồng, lãi là 65.000.000đồng.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Anh K , chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 190.000.000đồng x 5% = 9.500.000đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 91, Điều 96, Điều 97, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 244, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 357, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ L .

Buộc anh Trần Văn K , chị Từ Bích N có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Mỹ L tổng số tiền là 190.000.000đồng (một trăm chín mươi triệu đồng), trong đó tiền vay gốc là 125.000.000đồng (một trăm hai mươi lăm triệu đồng), lãi là 65.000.000đồng (sáu mươi lăm triệu đồng).

Trường hợp anh K , chị N thanh toán xong nghĩa vụ trả nợ thì chị L trả lại bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT554970 cấp ngày 07/11/2019 mang tên Trần Văn K cho anh K .

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí sơ thẩm:

Anh K , chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 9.500.000đồng (chín triệu năm trăm nghìn đồng).

Chị L không phải chịu án phí, được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.850.000đồng (năm triệu tám trăm năm chục nghìn đồng) theo lai thu số 0001323 ngày 09/6/2023 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

3. Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, riêng các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2023/DS-ST về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:63/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;