Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 63/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 63/2022/DS-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 107/2022/TLST- DS ngày 08 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2022/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Mai Ngọc N, sinh năm: 1975; (có mặt) Địa chỉ: Số A, ấp B, xã Đ, Tp M, tỉnh Tiền Giang.

Chỗ ở: Số R, Phường K, TP M, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Ông Võ Bá Đ, sinh năm: 1977; (vắng mặt) Bà Phạm Thị Thanh T, sinh năm: 1978; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Số Q, Phường N, Tp M, tỉnh Tiền Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Phan Th, sinh năm: 1969; (xin vắng mặt) Địa chỉ: Số A, ấp B, xã Đ, Tp M, tỉnh Tiền Giang. Chỗ ở: Số R, Phường K, TP M, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 22/03/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Mai Ngọc N trình bày:

Ngày 20/3/2021 bà có cho vợ chồng ông Võ Bá Đ và bà Phạm Thị Thanh T vay số tiền 50.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận lãi suất 200.000đ/ngày.

Ngày 06/4/2021 ông Đ, bà T vay thêm số tiền 10.000.000 đồng. Ngày 14/4/2021 ông Đ, bà T vay thêm số tiền 5.000.000 đồng.

Tổng số tiền ông Đ, bà T vay của bà là 65.000.000 đồng, mục đích vay tiền để ông Đạt, bà Thảo mua xe tải 63C 08106 hiệu HINO.

Kể từ ngày 14/4/2021 ông Đ, bà T không trả tiền vay cũng như không trả lãi.

Ngày 24/6/2021, bà cùng ông Đ, bà T có mặt tại Công an xã Đ thương lượng trả tiền dứt điểm vào tháng 03/2022, nhưng đến nay ông Đ, bà T vẫn không trả tiền.

Nay bà khởi kiện, buộc ông Đ và bà T trả cho bà số tiền 65.000.000 đồng, không yêu cầu trả lãi.

* Bị đơn ông Võ Bá Đ, bà Phạm Thị Thanh T đã được Toà án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà nhưng vẫn không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của bà N.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Phan T trình bày: Ông là chồng bà N, tiền bà N cho vợ chồng ông Đ, bà T vay là tài sản chung của hai vợ chồng, khi vay tiền ông có ký tên với vai trò người làm chứng. Nay ông thống nhất với lời trình bày của vợ ông là bà N. Buộc vợ chồng Đ, T trả cho vợ chồng ông số tiền 65.000.000 đồng. Ông xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

* Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Mai Ngọc N vẫn giữ yêu cầu yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày và phát biểu tranh luận của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà Mai Ngọc N căn cứ vào giấy mượn tiền đề ngày 20/3/2021, biên bản thương lượng ngày 24/6/2021 để khởi kiện yêu cầu ông Võ Bá Đ và bà Phạm Thị Thanh T trả số tiền 65.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” được quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Đ và bà T có hộ khẩu thường trú tại số Q, Phường N, Tp M, tỉnh Tiền Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

[3] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt đối với ông Đ và bà T đến Tòa án để lấy lời khai, thông báo về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Đ, bà T vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với bị đơn ông Đ, bà T.

[4] Về yêu cầu của đương sự: Căn cứ vào giấy mượn tiền ngày 20/3/2021 và biên bản thương lượng ngày 24/6/2021 thể hiện ông Đ, bà T có vay của bà N số tiền 65.000.000 đồng. Hợp đồng vay tài sản là tiền giữa ông Đ, bà T với bà N là hợp đồng có kỳ hạn, hạn cuối trả nợ là ngày 20/3/2022. Việc ông Đ, bà T không thực hiện đúng nghĩa vụ của bên vay tài sản trả đủ tiền khi đến hạn là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự. Căn cứ Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự, ông Đ, bà T phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh, đối chất số tiền đã vay, hoặc cung cấp chứng cứ đã thanh toán tiền cho bà N. Tuy nhiên, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, ông Đ, bà T không đến Tòa án cung cấp chứng cứ, đối chất về số tiền đã vay đã thanh toán. Do đó, căn cứ vào lời khai và chứng cứ là giấy mượn tiền ngày 20/3/2021 và biên bản thương lượng ngày 24/6/2021 có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N theo quy định tại các Điều 463, 466, 470 của Bộ luật dân sự năm 2015.

[8] Về án phí: Bị đơn ông Đ, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 228, 266, 273, 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 463, 466, 470 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Ngọc N.

2. Buộc ông Võ Bá Đ và bà Phạm Thị Thanh T phải trả cho bà Mai Ngọc N số tiền 65.000.000 (sáu mươi lăm triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người có nghĩa vụ thi hành án chậm thi hành án, thì hàng tháng còn phải chịu số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

4. Về án phí: Ông Võ Bá Đ và bà Phạm Thị Thanh T phải chịu 3.250.000 (ba triệu hai trăm năm mươi ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho bà Mai Ngọc N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.600.000 (một triệu sáu trăm ngàn) đồng theo biên lai thu tiền số 0022090 ngày 08/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Mai Ngọc N có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Ông Võ Bá Đ, bà Phạm Thị Thanh T, ông Nguyễn Phan T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 63/2022/DS-ST

Số hiệu:63/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;