Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 61/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 61/2021/DS-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 101/2021/TLST-DS, ngày 01 tháng 7 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2021/QĐXXST - DS ngày 29/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 175/2021/QĐST-DS ngày 2311/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1957 (Có mặt). Địa chỉ: Khóm V, phường C, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Bà Kiều Thị T (M), sinh năm 1976. (Có mặt).

Địa chỉ: ấp M, xã M, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị N trình bày: Ngày 24/01/2020 âl bà có cho bà Kiều Thị T vay số tiền là 55.000.000 đồng, vay không tính lãi, bà T hẹn 10 ngày sau sẽ trả cho bà, việc vay hai bên có làm biên nhận đề ngày 24/01/2020 âl. Biên nhận do bà T tự viết và đưa bà giữ. Thực tế số tiền này bà gửi bà T để trả cho ông D và bà D nhưng phía bà T không trả. Sau đó, ông D có khởi kiện và yêu cầu bà trả số tiền 55.000.000 đồng và 5.000.000 đồng tiền lãi. Bà đã nhiều lần yêu cầu bà T trả tiền còn nợ 55.000.000 đồng nhưng bà T cứ hẹn mà không trả.

Nay bà yêu cầu bị đơn bà Kiều Thị T trả cho bà số tiền là 55.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi chậm trả với mức lãi suất 0,83%/tháng từ ngày 24/01/2020 cho đến ngày xét xử sơ thẩm.

* Bị đơn bà Kiều Thị T trình bày: Bà thừa nhận có hỏi vay bà N số tiền là 55.000.000 đồng vào ngày 24/01/2020 âl. Số tiền này là bà hỏi vay dùm cho ông Đ con bà N. Tuy nhiên, đến nay ông Đ vẫn chưa trả lại số tiền này cho bà nên bà chưa trả cho bà N. Bà có hẹn gặp ông Đ nhiều lần để thỏa thuận nhưng do dịch bệnh nên chưa thỏa thuận được. Nay bà đồng ý trả số tiền 55.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị N và bà cũng đồng ý tính lãi theo yêu cầu của bà N. Nhưng do hiện bà không có tiền nên bà sẽ yêu cầu ông Đ trả bà sau đó bà sẽ trả bà N.

Tại phiên tòa, vị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử (HĐXX) và Thư ký phiên tòa thực hiện đầy đủ các thủ tục, trình tự khi xét xử vụ án. Các đương sự có mặt chấp hành tốt nội quy phiên tòa và quy định của pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ vay còn nợ nên quan hệ pháp luật tranh chấp được HĐXX xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Đồng thời, bị đơn có địa chỉ cư trú tại ấp M, xã M, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng theo qui định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả tiền vay còn nợ là 55.000.000 đồng. Bị đơn thừa nhận còn nợ nguyên đơn số tiền 55.000.000 đồng, nên đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo qui định tại Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do bị đơn không có tiền và sẽ yêu cầu ông Đ trả tiền cho bị đơn, thì bị đơn mới trả cho nguyên đơn. Nhưng không được nguyên đơn đồng ý vì cho rằng đây là việc của bị đơn với ông Đ không có liên quan đến nguyên đơn. Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả số tiền vay còn nợ 55.000.000 đồng là có cơ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc tính lãi chậm trả từ ngày 17/02/2020 dương lịch (tương đương ngày 24/01/2020 âl) theo mức lãi suất 0,83%/tháng. Bị đơn thừa nhận chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn, nên đồng ý đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn. Do đó, đối với yêu cầu tính lãi suất chậm trả của nguyên đơn là có cơ sở nên HĐXX chấp nhận. Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 466 và Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Tiền lãi được tính cụ thể như sau: (Từ ngày 17/02/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 14/12/2021) là 01 năm 9 tháng 27 ngày x 55.000.000 đồng x 0,83% = 9.997.000 đồng (đã làm tròn).

[4] Từ những phân tích nêu trên, xét lời đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 280, khoản 1, khoản 4 Điều 466 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N.

Buộc bị đơn bà Kiều Thị T có trách nhiệm trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị N số tiền vay còn nợ là 64.997.000 đồng (Sáu mươi bốn triệu chín trăm chín mươi bảy ngàn đồng). Trong đó tiền vốn là 55.000.000 đồng và tiền lãi là 9.997.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn bà Kiều Thị T chịu số tiền án phí 3.249.850 đồng (Ba triệu hai trăm bốn mươi chín nghìn tám trăm năm mươi đồng). Nguyên đơn bà Nguyễn Thị N không phải chịu án phí.

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 61/2021/DS-ST

Số hiệu:61/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;