Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 54/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 54/2021/DS-ST NGÀY 25/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 57/2021/TLST- DS ngày 24 tháng 3 năm 2021 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2021/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số: 142/2021/QĐST-DS ngày 07 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà P.N.T, sinh năm 1978;

Địa chỉ: ấp TB, xã TG, huyện TS, tỉnh An Giang. Có mặt.

2. Bị đơn:

- Ông L.V.V.L, sinh năm 1984;

- Bà N.T.T.N, sinh năm 1985.

Cùng địa chỉ: Ấp TB, xã TG, huyện TS, tỉnh An Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là bà P.N.T trình bày như sau:

Do chỗ quen biết nên bà có cho vợ chồng ông L.V.V.L và bà N.T.T.N vay nhiều lần tiền, cụ thể như sau:

- Ngày 04/10/2016 (ÂL), ông L và bà N viết biên nhận vay 20.000.000 đồng;

- Ngày 25/6/2016, ông L viết biên nhận vay 01 (một) chỉ vàng 24kara (9999) và 1.000.000 đồng;

- Ngày 29/7/2017, ông L và bà N viết biên nhận vay 20.000.000 đồng;

- Ngày 04/9/2017, ông L và bà N viết biên nhận vay 3.000.000 đồng;

- Ngày 10/7/2018, ông L và bà N viết biên nhận vay 5.000.000 đồng;

Tổng cộng, ông L và bà N vay của bà số tiền 49.000.000 đồng và 01 chỉ vàng 24kara (9999).

Từ khi vay tới nay, ông L và bà N vẫn chưa trả cho bà được khoản nào. Do đó, bà yêu cầu ông L và bà N có trách nhiệm trả cho bà số tiền 49.000.000 đồng (bốn mươi chín triệu đồng) và 01 (một) chỉ vàng 24kara (9999), không yêu cầu lãi suất.

* Ông L.V.V.L và bà N.T.T.N đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tham gia phiên tòa ngày hôm nay nhưng vắng mặt không có lý do. Ông L và bà N không cung cấp tự khai cũng như tài liệu chứng cứ gì liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 463, 466 Bộ luật dân sự 2015 tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn ông L.V.V.L và bà N.T.T.N liên đới trả cho bà T số tiền 49.000.000 đồng và 01 chỉ vàng 24kara (9999); Bị đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Bà T yêu cầu ông L và bà N trả số tiền nợ vay 49.000.000 đồng và 01 chỉ vàng 24kara (9999). Do đó, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Ông L và bà N đang cư trú tại ấp Tây Bình, xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông L.V.V.L và bà N.T.T.N (là bị đơn trong vụ án) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên toà xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông L và bà N.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Đối với yêu cầu khởi kiện của bà T, HĐXX xét thấy:

Căn cứ vào các biên nhận nợ ngày 04/6/2016, ngày 25/6/2016, ngày 29/7/2017, ngày 04/9/2017 và ngày 10/7/2018 do bà T cung cấp thể hiện số tiền ông L và bà N vay của bà tổng cộng là 49.000.000 đồng và 01 chỉ vàng 24kara (9999). Phía dưới các biên nhận bà T cung cấp có chữ ký và chữ viết họ tên của ông L.V.V.L và bà N.T.T.N. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận ông L và bà N có ký vay của bà T số tiền 49.000.000 đồng và 01 chỉ vàng 24kara (9999).

Theo bà T trình bày, khi đến hạn trả nợ ông L và bà N không trả nợ cho bà N cam kết. Ông L và bà N không trả nợ là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, do đó, yêu cầu khởi kiện của bà T là có cơ sở nên được HĐXX chấp nhận.

Ông L và bà N vắng mặt và không đưa ra chứng cứ chứng minh nên phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2.2] Đối với yêu cầu tính lãi: Bà T không yêu cầu tính lãi suất nên HĐXX không xem xét.

[3] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên được HĐXX chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên ông L và bà N phải chịu nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

* Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà P.N.T:

Buộc ông L.V.V.L và bà N.T.T.N cùng có trách nhiệm trả cho bà P.N.T số tiền 49.000.000 đồng (bốn mươi chín triệu đồng) và 01 (một) chỉ vàng 24kara (9999).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

Hoàn trả cho bà P.N.T số tiền 1.350.000đ (một triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008269 ngày 24/3/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thoại Sơn.

Ông L.V.V.L và bà N.T.T.N phải chịu 2.735.000đ (hai triệu bảy trăm ba mươi lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (01 chỉ vàng 24kara (9999) tương đương 5.707.000 đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bà T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông L và bà N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 54/2021/DS-ST

Số hiệu:54/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;