Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 47/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 47/2021/DS-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 608/2020/TLST-DS ngày 15 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số: 35/2021/QĐST-DS, ngày 12/4/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1983.

Đại diện ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1987. (Có mặt) Cùng địa chỉ: Tổ 12, ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Chị Trần Thị Yến T, sinh năm 1996. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thùy L trình bày:

Ngày 18/9/2019 bà Nguyễn Thị Thúy H có cho chị Trần Thị Yến T vay số tiền 8.000.000đ, lãi suất 1%/tháng, thời hạn vay là 30 ngày. Khi vay tiền chị T có viết vào biên nhận mượn tiền ngày 18/9/2019 cho bà H. Từ khi vay tiền đến nay chị T không trả cho bà H khoản tiền vốn và lãi nào.

Ngày 13/11/2019 bà H tiếp tục cho chị T vay tiếp số tiền 59.200.000đ, lãi suất 1%/tháng, thời hạn vay là 30 ngày. Khi mượn tiền chị T có viết vào bản hợp đồng cho mượn tiền ngày 13/11/2019 cho bà H. Từ khi vay đến nay chị T không trả tiền vốn và lãi cho bà H.

Đến nay thời gian đã quá lâu chị T vẫn không trả vốn và lãi cho bà H như đã thỏa thuận, mặc dù đã nhiều lần yêu cầu chị T trả nợ, nhưng chị T không trả mà cứ hứa hẹn nhiều lần. Nay bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc chị Trần Thị Yến T phải trả cho bà Nguyễn Thị Thúy H số tiền vay vốn và lãi là 75.184.000đ, trong đó số tiền vốn 8.000.000đ và lãi là 880.000đ (lãi tính từ ngày làm biên nhận 18/9/2019 đến ngày 10/11/2020), tiền vốn số tiền 59.200.000đ và lãi là 7.104.000đ (lãi tính từ ngày viết hợp đồng cho mượn tiền 13/11/2019 đến ngày 10/11/2020). Yêu cầu trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

* Bị đơn Trần Thị Yến T đã được tòa án triệu tập hợp lệ các lần để dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không có lý do cũng không trình bày ý kiến bằng văn bản để gửi cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thúy H xác định đây là quan hệ tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét thấy, hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thúy H và chị Trần Thị Yến T thực tế đã phát sinh. Tại phiên tòa hôm nay, bà L là đại diện theo ủy quyền của bà H cung cấp bản chính biên nhận tiền viết tay theo đó biên nhận ngày 18/9/2019 có nội dung “….Trần Thị Yến T địa chỉ: Mỹ Hòa - Mỹ Long – Cai Lậy – TG có mượn của chị Nguyễn Thị Thúy H số tiền 8.000.000đ”; bản chính bản hợp đồng cho mượn tiền ngày 13/11/2019 thể hiện nội dung “…Trần Thị Yến T…mượn số tiền 59.200.000đ”. Bà L trình bày, bà H cho chị T mượn số tiền nêu trên hẹn thời gian 01 tháng trả và lãi suất là 1%/tháng, chị T cứ hẹn mà không trả kéo dài cho đến nay, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà H rất nhiều nên bà H yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc chị T trả cho bà H số tiền 75.184.000đ tiền vốn và lãi, yêu cầu trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Đối với bị đơn Trần Thị Yến T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng trong đó nêu rõ yêu cầu khởi kiện của bà H, nhưng chị T không có ý kiến phản đối và không đến dự hòa giải cũng như không tham gia phiên tòa; như vậy là chị T đã mặc nhiên thừa nhận nghĩa vụ của mình đối với nguyên đơn Nguyễn Thị Thúy H và đây cũng là tình tiết không phải chứng minh được quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

Như vậy việc vay tiền giữa bà H và chị T thực tế đã phát sinh, chị T hứa hẹn nhiều lần mà không trả là gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bà H và vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự. Để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho bà H, HĐXX nghĩ cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thúy H, buộc chị Trần Thị Yến T trả số tiền vốn vay 67.200.000đ và tính lãi theo lãi suất 1%/tháng là 7.984.000đ (lãi số tiền vốn gốc 8.000.000đ là 880.000đ tính từ ngày 18/9/2019 đến 10/11/2020; lãi số tiền vốn gốc 59.200.000đ là 7.104.000đ, tính từ ngày 13/11/2019 đến ngày 10/11/2020) phù hợp và có căn cứ.

Chị Trần Thị Yến T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227 BLTTDS HĐXX xét xử vắng mặt chị T.

[3] Về án phí: Chị Trần Thị Yến T phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự, khoản 2 Điều 92, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử :

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thúy H Buộc chị Trần Thị Yến T phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Thúy H số tiền tổng cộng vốn và lãi là:75.184.000đ (Bảy mươi lăm triệu một trăm tám mươi bốn ngàn đồng) trong đó vốn vay là 67.200.000đ và 7.984.000đ tiền lãi. Việc trả tiền thực hiện ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà Nguyễn Thị Thúy H có đơn yêu cầu thi hành án nếu chị Trần Thị Yến T chậm thi hành đối với phần tiền thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

[2] Về án phí: Chị Trần Thị Yến T phải chịu 3.759.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thúy H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.087.800đ theo biên lai thu số 0006241, ngày 15/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy.

[3] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn Nguyễn Thị Thúy H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn chị Trần Thị Yến T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 47/2021/DS-ST

Số hiệu:47/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;