Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 46/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 46/2022/DS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 16-9-2022, tại Phòng xét xử, trụ sở Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 56/2022/TLST-DS ngày 14 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 57/2022/QĐST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn M, sinh năm 1968. Địa chỉ: Thôn 11, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Ông Vy Văn Th, bà Nông Thị T, đều vắng mặt Địa chỉ: Thôn 8, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà nguyên đơn ông Trần Văn M trình bày: Vào ngày 03/02/2019 vợ chồng ông Vy Văn Th và bà Nông Thị T có vay của ông M số tiền 48.300.000 đồng và 3.000.000 đồng vay thêm và hẹn đến vào cuối năm 2019 sẽ thanh toán hết toàn bộ số tiền đã vay. Khi vay hai bên thỏa thuận với nhau lãi suất là 2%/tháng, ông Th có ký nhận vào giấy vay tiền, còn bà T thì không ký nhận, nhưng toàn bộ số tiền trên đều do hai vợ chồng đến lấy. Khi đến hẹn, ông M đã nhiều lần liên hệ và đến nhà của vợ chồng ông Th, bà T để yêu cầu trả nợ nhưng ông, bà cứ lẩn tránh.

Nay ông M yêu cầu Tòa án xem xét, buộc vợ chồng ông Th, bà T phải trả toàn bộ số tiền còn nợ là 51.300.000 đồng tiền gốc và lãi suất 1,6%/tháng kể từ ngày vay (tính từ ngày vay 03/02/2019 đến ngày 03/02/2022 là 36 tháng), cụ thể: 51.300.000 đồng x 1,6%/tháng x 36 tháng = 29.548.000 đồng; tổng cộng cả gốc và lãi là 80.848.000 đồng.

Tại giấy vay tiền đề ngày 03/02/2019 ngoài số tiền 48.300.000 đồng và 3.000.000 đồng, còn có nội dung 250 kg cà phê nhân thì ông Trần Văn M không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này, sau này nếu cần thiết ông M sẽ khởi kiện bằng 01 vụ án khác.

Tiếp tục tính lãi suất kể từ ngày 04/02/2022 cho đến khi ông Th, bà T thanh toán xong khoản nợ nói trên.

Bị đơn ông Vy Văn Th, bà Nông Thị T mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia tố tụng, nhưng vắng mặt không có lý do, việc ông Th, bà T cố tình trốn tránh, không đến Tòa án để giải quyết vụ kiện là tự tước đi của mình quyền, lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, ông Th, bà T phải chịu hậu quả pháp lý về sự vắng mặt của mình và Tòa án giải quyết vụ án trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án.

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn yêu cầu Toà án tiến hành trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết của ông Vy Văn Th.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, Nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, còn đối với Bị đơn mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt nên phải chịu hậu quả pháp lý của việc Toà án xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ buộc ông Vy Văn Th trả nợ cho ông Trần Văn M và tiếp tục tính lãi suất cho đến khi bị đơn trả xong nợ.

Tại phiên toà nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về khởi kiện và thẩm quyền giải quyết: Ngày 06-4-2022 nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, ngày 12-4-2022 Tòa án thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, ngày 13-4-2022 nguyên đơn nộp tạm ứng án phí và Tòa án thụ lý vụ án là đúng quy định tại Điều 191 và 195 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật về “Tranh chấp hợp đồng dân sự” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về trình tự thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử xét thấy quá trình giải quyết vụ án bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do nên không thể công khai chứng cứ, tiến hành đối chất, hoà giải và xét xử được theo quy định tại Điều 205, Điều 207, Điều 208 BLTTDS. Do vậy, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Vào ngày 03/02/2019 vợ chồng ông Vy Văn Th và bà Nông Thị T có vay của ông M số tiền 48.300.000 đồng và 3.000.000 đồng vay thêm và hẹn đến vào cuối năm 2019 sẽ thanh toán hết toàn bộ số tiền đã vay. Khi vay ông Th có ký nhận vào giấy vay tiền, còn bà T thì không ký nhận, nhưng toàn bộ số tiền trên đều do hai vợ chồng đến lấy. Khi đến hẹn, ông M đã nhiều lần liên hệ và đến nhà của vợ chồng ông Th, bà T để yêu cầu trả nợ nhưng ông, bà cứ lẩn tránh không chịu trả nợ là vi phạm quy định tại Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự.

Tòa án đã trưng cầu giám định chữ viết và chữ ký của ông Vy Văn Th trong giấy vay tiền đề ngày 03/02/2019. Tại Kết luận giám định số 579/KL-KTHS ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ ký, chữ viết mang tên Vy Văn Th trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1 so với chữ viết, chữ ký mang tên Vy Văn Th trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 là do cùng một người ký và viết ra.

Như vậy, việc bà ông M khởi kiện yêu cầu ông Th, bà T phải trả cho số tiền đã vay là 51.300.000 đồng là có căn cứ, nên HĐXX cần chấp nhận.

Đối với tiền lãi khi vay mượn hai bên thỏa thuận 2%/tháng, trong quá trình giải quyết nguyên đơn yêu cầu mức lãi suất 1,6%/tháng, tiền lãi được tính là 29.548.000 đồng, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự, nên HĐXX cần chấp nhận.

Đối với việc tại giấy vay tiền đề ngày 03/02/2019 ngoài số tiền 48.300.000 đồng và 3.000.000 đồng, còn có nội dung 250 kg cà phê nhân thì ông Trần Văn M không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Xét quan điểm của Viện kiểm sát về nội dung vụ án là không có cơ sở, nên HĐXX không chấp nhận.

[6] Về chi phí giám định: Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông M yêu cầu trưng cầu giám định và nộp tạm ứng số tiền 6.000.0000 đồng, chi phí giám định là 4.500.000 đồng. Kết quả giám định chứng minh yêu cầu của ông M là có căn cứ nên ông M không phải chịu tiền chi phí giám định. Hoàn trả cho ông M tiền chi phí giám định và số tiền 1.500.000 đồng tiền tạm ứng còn lại sau chi phí.

Ông Vy Văn Th và bà Nông Thị T phải chịu tiền chi phí giám định là phù hợp với các Điều 161, 162 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[7] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, nên bị đơn ông Vy Văn Th và bà Nông Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 463, Điều 466, khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn M, buộc ông Vy Văn Th và bà Nông Thị T phải trả cho ông Trần Văn M tổng cộng cả gốc và lãi số tiền là 80.848.000 đồng.

Kể từ ngày 04/02/2022 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Về chi phí giám định: Áp dụng Điều 161, Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự. buộc ông Vy Văn Th và bà Nông Thị T phải chịu 4.500.000 đồng tiền chi phí giám định. Hoàn trả cho ông Trần Văn M số tiền 4.500.000 đồng sau khi thu được của ông Vy Văn Th và bà Nông Thị T.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Ông Vy Văn Th và bà Nông Thị T phải chịu 4.042.400 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho ông Trần Văn M số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.022.000 đồng theo biên lai thu số 60AA/2021/0017959 ngày 13/4/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, Bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 46/2022/DS-ST

Số hiệu:46/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;