Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 42/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 42/2021/DS-ST NGÀY 25/10/2021 VÈ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 25 tháng 10 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95/2021/ TLST- DS ngày 01 tháng 06 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/ QĐXXST- DS ngày 21 tháng 09 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1982 (có mặt) Địa chỉ: ấp Đ Đ, xã T H, huyện T H, tỉnh Kiên Giang

Bị đơn: Chị Lê Thị K, sinh năm 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp T T, xã T H, huyện T H, tỉnh Kiên Giang

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn D, sinh năm 1984 (chồng của chị Lê Thị K) (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp T T, xã T H, huyện T H, tỉnh Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T trình bày: Nguyên vào ngày 29/06/2020, chị Lê Thị K có đến nhà tôi vay số tiền là 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng), lãi suất thỏa thuận là 2%/1 tháng, lúc vay thì chị K có làm biên nhận nợ với tôi vào ngày 29/06/2020, mục đích chị K vay tiền của tôi là để lấy vốn làm ăn, phát triển kinh tế gia đình, thời hạn vay là 02 tháng, vào ngày 29/08/2020 chị K sẽ trả hết nợ gốc và lãi cho tôi.

Đến nay thì chị K vẫn không có đóng lãi và trả nợ gốc cho tôi mặc dù tôi có đến nhà chị K đòi nợ nhiều lần nhưng chị K chỉ hứa mà không thực hiện việc trả nợ.

Nay tại phiên tòa, tôi yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp giải quyết buộc chị Lê Thị K và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn D có nghĩa vụ liên đới trả cho tôi số tiền gốc 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) và yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật.

Bị đơn chị Lê Thị K trình bày: chị Lê Thị K vắng mặt không lý do nên không thể trình bày.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn D trình bày: anh Phạm Văn D vắng mặt không lý do nên không thể trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS năm 2015. Mặt khác đây là vụ kiện dân sự không có yếu tố nước ngoài nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS năm 2015. Ngoài ra Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: chị Lê Thị K với tư cách là bị đơn, anh Phạm Văn D với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tại phiên tòa hôm nay, chị K và anh D vắng mặt không lý do, trước đó Tòa án đã tống đạt và tiến hành các thủ tục niêm yết theo quy định chung của Bộ luật tố tụng dân sự, các thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đua vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho chị K và anh D, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà bị đơn không có yêu cầu phản tố vắng mặt thì Tòa án tiến hành xử vắng mặt họ”. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị K và anh D là phù hợp theo quy định pháp luật.

Quan hệ pháp luật tranh chấp xảy ra giữa chị Nguyễn Thị Kim T với chị Lê Thị K là quan hệ “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015.

Điều 463 Bộ luật dân sự quy định: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T yêu cầu chị Lê Thị K và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn D có nghĩa vụ liên đới trả cho chị T số tiền gốc 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) và yêu cầu tính lãi theo quy định pháp luật là có cơ sở chấp nhận. Bởi vì chị T có cho chị K vay số tiền gốc là 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng), lãi suất thỏa thuận là 2%/1 tháng, lúc vay thì chị K có làm biên nhận nợ với chị T vào ngày 29/06/2020, thời hạn vay là 02 tháng, vào ngày 29/08/2020 chị K sẽ trả hết nợ gốc và lãi cho chị T. Đến hạn trả nợ thì chị K không thực hiện việc trả nợ và chị T nhiều lần đến nhà chị K đòi nợ nhưng chị K chỉ hứa chứ không trả nợ cho chị T và được biết mục đích chị K vay tiền của chị T là lấy vốn làm ăn để phát triển kinh tế gia đình và mang lại thu nhập chung cho gia đình, theo khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30....”; theo khoản 1 Điều 30: “vợ, chồng có nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Vì vậy số tiền mà chị K nợ chị T số tiền gốc là 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) được coi là nợ chung của vợ chồng chị Lê Thị K, anh Phạm Văn D.

Nay tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Kim T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn chị Lê Thị K và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn D phải trả hết nợ gốc số tiền là 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) và yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật. Lời yêu cầu của chị T phù hợp với Điều 463 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Như vậy số tiền lãi trong vụ kiện này tính từ ngày 30/06/2020 đến ngày xét xử hôm nay là ngày 25/10/2021 là 480 ngày cụ thể như sau: 145.000.000đ x 1,66% x 480 ngày = 38.512.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm mười hai nghìn đồng). Tổng cộng tiền gốc và tiền lãi là 183.512.000đ (một trăm tám mươi ba triệu năm trăm mười hai nghìn đồng).

[4] Về án phí DSST: Áp dụng điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Yêu cầu của chị T được chấp nhận nên chị T không phải chịu án phí, trả lại tiền tạm ứng án phí cho chị T số tiền là 3.625.000đ (ba triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008383 ngày 19/05/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

Buộc chị Lê Thị K, anh Phạm Văn D phải nộp: 183.512.000đ x 5% = 9.175.600đ tính tròn là 9.176.000đ (chín triệu một trăm bảy mươi sáu nghìn đồng).

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1/ Áp dụng Điều 463, Khoản 1 Điều 468 Bộ Luật Dân Sự năm 2015, khoản 1 Điều 27, khoản 1 Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T.

3/ Buộc chị Lê Thị K và anh Phạm Văn D có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Nguyễn Thị Kim T số tiền gốc và lãi là 183.512.000đ (một trăm tám mươi ba triệu năm trăm mười hai nghìn đồng).

Kể từ ngày chị Nguyễn Thị Kim T có đơn yêu cầu Thi hành án nếu chị Lê Thị K và anh Phạm Văn D không trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải trả tiền lãi theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

4/ Về án phí DSST:

- Buộc chị Lê Thị K, anh Phạm Văn D nộp 9.176.000đ (chín triệu một trăm bảy mươi sáu nghìn đồng).

- Trả lại tiền tạm ứng án phí cho chị Nguyễn Thị Kim T số tiền là 3.625.000đ (ba triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008383 ngày 19/05/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự ,người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Báo cho chị Nguyễn Thị Kim T biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Báo cho chị Lê Thị K, anh Phạm Văn D biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

389
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 42/2021/DS-ST

Số hiệu:42/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;