Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 34/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH L

BẢN ÁN 34/2021/DS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 208/2020/TLST-DS ngày 19 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST- DS ngày 29 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng A.

Địa chỉ: số 201-203 Đường T, Phường D, Quận C, Thành phố H.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Toàn T.

(Theo Giấy ủy quyền số 248/2020/UQ-AMC ngày 23/9/2020)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Huỳnh S, sinh năm 1996.

Địa chỉ: số 32 Đường G, Phường B, thành phố T, tỉnh L.

(Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 24 tháng 9 năm 2021, cũng như các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Ngân hàng A do ông Phan Toàn T đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 16/01/2019, Ông Nguyễn Huỳnh S đã ký kết hợp đồng tín dụng dư nợ giảm dần số 0037/2019/925-CV để vay tiền của Ngân hàng A – chi nhánh T tại Phòng giao dịch H cụ thể như sau: số tiền vay: 1.000.000.000đ, thời hạn vay:

180 tháng; Lãi suất: 12.5%/tháng, thay đổi 03 tháng/lần. Mục đích vay: hoàn tiền mua bất động sản phục vụ nhu cầu đời sống.Tài sản đảm bảo cho khoản vay trên là quyền sử dụng đất thuộc thửa số 126, tờ bản đồ 12, diện tích thế chấp 1.380m2 tọa lạc tại ấp 1, xã T, huyện T, tỉnh L. Chủ sở hữu là Ông Nguyễn Huỳnh S theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 053025 do UBND huyện T, tỉnh L cấp ngày 30/9/2013.

Tổng dư nợ của khoản vay tính đến ngày 18/6/2021 là 1.375.926.191đ. Trong đó, nợ gốc là 994.444.000đ, nợ lãi tổng cộng là 381.482.191đ. Trong thời gian thanh toán nợ Ông S đã thanh toán cho gân hàng được 01 kỳ với tổng số tiền là 16.248.190đ. Kể từ ngày 27/02/2019 Ông S đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, mặc dù ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, tạo điều kiện để Ông S trả nợ nhưng Ông S vẫn không thực hiện lại còn có biểu hiện bất hợp tác, tìm cách lẫn tránh và không có thiện chí giải quyết nợ vay.

Nay Ngân hàng A yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc Ông Nguyễn Huỳnh S có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi tạm tính đến ngày 18/6/2021 cho Ngân hàng A tổng cộng số tiền là 1.375.926.191đ bao gồm nợ gốc là 994.444.000đ, nợ lãi tổng cộng là 381.482.191đ và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến ngày thanh toán dứt nợ. Yêu cầu Ông Nguyễn Huỳnh S tiếp tục thực hiện hợp đồng thế chấp để đảm bảo thi hành án.

Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến phiên tòa xét xử vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Ngân hàng A khởi kiện yêu Ông Nguyễn Huỳnh S trả tiền vay gồm vốn và lãi tính đến ngày 18/6/2021 là 1.375.926.191 đồng (tiền gốc 994.444.000 đồng; nợ lãi 381.482.191 đồng) là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử buộc Ông Nguyễn Huỳnh S phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền vay gồm vốn và lãi tính đến ngày 18/6/2021 là 1.375.926.191 đồng (tiền gốc 994.444.000 đồng; nợ lãi 381.482.191 đồng) và lãi phát sinh theo lãi suất ghi trên Hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán hết nợ. Tiếp tục thực hiện hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất thửa 126, tờ bản đồ số 12, diện tích 1.380m2 tại ấp 1, xã Tân Phước Tây, huyện Tân Trụ, tỉnh L do Ông Nguyễn Huỳnh S đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 30/9/2013 để đảm bảo thi hành án. Ông S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngân hàng A khởi kiện về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với Ông Nguyễn Huỳnh S làm phát sinh tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Huỳnh S là bị đơn có địa chỉ cư trú tại số 32 Đường G, Phường 2, thành phố T, tỉnh L nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L.

Tại phiên tòa, Ông Nguyễn Huỳnh S vắng mặt. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng với Ngân hàng A, Ông S không có thông báo về sự thay đổi địa chỉ. Tại Điều 10 qui định về thông báo của hợp đồng tín dụng được ký giữa Ngân hàng A và Ông Nguyễn Huỳnh S đã qui định Ông S phải có trách nhiệm thông báo cho ngân hàng, cơ quan địa phương địa chỉ mới nếu có phát sinh thay đổi địa chỉ, trường hợp không thông báo được xem là cố tình giấu địa chỉ nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ… Ông S phải biết được qui định này khi ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng. Nếu trường hợp Ông S vắng mặt do thay đổi địa chỉ cư trú mà không thông báo cho Ngân hàng biết là trường hợp cố tình giấu địa chỉ thì Tòa án nhân dân thành phố T sẽ tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung là phù hợp theo qui định tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ- HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Ông S đã được Tòa án thực hiện việc niêm yết, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập Ông S đến các phiên tòa sơ thẩm nhưng Ông S không chấp hành nên Tòa án xét xử vắng mặt đối với Ông S là đúng theo quy định tại Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ngân hàng A do ông Phan Toàn T đại diện theo ủy quyền có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt tất cả các được sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Ông Nguyễn Huỳnh S đã được Ngân hàng A giải ngân cho vay số tiền tổng cộng là 1.000.000.000đ theo hợp đồng tín dụng số 0037/2019/925-CV ngày 16/01/2019 theo hình thức vay có tài sản thế chấp. Ông Nguyễn Huỳnh S chỉ thanh toán được số tiền gốc là 5.556.000đ và lãi là 10.692.190đ. Nhiều lần ngân hàng đã nhắc nhở, tạo điều kiện cho Ông S trả nợ và đã có thông báo thu hồi nợ trước hạn và thông báo khởi kiện nhưng Ông S vẫn cố tình né tránh, cho thấy rõ ràng Ông S đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo qui định tại Điều 466 Bộ luật dân sự. Do đó, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A là có cơ sở chấp nhận.

Về tính lãi: Ngân hàng A yêu cầu Ông Nguyễn Huỳnh S trả lãi của hợp đồng tín dụng tạm tính đến ngày 18/6/2021 bao gồm lãi trong hạn là 333.625.064đ, lãi quá hạn là 47.857.127đ . Tổng cộng lãi là 381.482.191đ và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến ngày thanh toán dứt nợ. Do Ông Nguyễn Huỳnh S đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ sang nợ quá hạn và tính lãi theo mức lãi suất đã được qui định trong hợp đồng tín dụng, đồng thời phù hợp với qui định Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Do đó, mức tính lãi của Ngân hàng là hoàn toàn có căn cứ nên cần chấp nhận yêu cầu về tính lãi của Ngân hàng.

Về phương thức thanh toán: Ngân hàng A yêu cầu Ông Nguyễn Huỳnh S trả toàn bộ nợ gốc và lãi tạm tính đến ngày 18/6/2021 cho Ngân hàng A tổng cộng số tiền là 1.375.926.191đ, yêu cầu trả một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ông S không có ý kiến thể hiện nên cần chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng A về phương thức thánh toán.

Đối với Quyền sử dụng đất thửa đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thửa đất thửa số 126, tờ bản đồ 12, diện tích thế chấp 1.380m2 tọa lạc tại ấp A, xã T, huyện T, tỉnh L. Chủ sở hữu là Ông Nguyễn Huỳnh S theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 053025 do UBND huyện T, tỉnh L cấp ngày 30/9/2013 theo hợp đồng thế chấp số 0033/2019/925-BĐ ngày 16/01/2019. Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà Ông Nguyễn Huỳnh S không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ theo thoả thuận trên thì Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đã thế chấp được phát mãi để đảm bảo thi hành án đối với số nợ trên cho Ngân hàng A.

[3] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Nguyễn Huỳnh S phải chịu 5.000.000đ tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Do Ngân hàng A đã tạm ứng nên cần buộc Ông Nguyễn Huỳnh S hoàn trả cho Ngân hàng A số tiền trên theo quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ.

[5] Về án phí dân sự: Ông Nguyễn Huỳnh S phải chịu 53.278.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngân hàng A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn lại toàn bộ tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng Điều 463; Điều 466; Điều 468 Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Buộc Ông Nguyễn Huỳnh S trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ theo hợp đồng tín dụng số 0037/2019/925-CV ngày 16/01/2019, bao gồm nợ gốc và lãi tổng cộng là 1.375.926.191đ (một tỷ, ba trăm bảy mươi lăm triệu, chín trăm hai mươi sáu nghìn, một trăm chín mươi mốt đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, người phải thi hành án còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng với Ngân hàng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Tiếp tục thực hiện hợp đồng thế chấp số 0033/2019/925-BĐ ngày 16/01/2019 giữa Ngân hàng A và Ông Nguyễn Huỳnh S để đảm bảo thi hành án.

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Nguyễn Huỳnh S phải hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần A số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ.

Về án phí dân sự: Ông Nguyễn Huỳnh S phải chịu 53.278.000đ (năm mươi ba triệu, hai trăm bảy mươi tám nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngân hàng A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn lại toàn bộ tạm ứng án phí là 24.414.000đ (hai mươi bốn triệu, bốn trăm mười bốn nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004862 ngày 19/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh L.

Án xử công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 34/2021/DS-ST

Số hiệu:34/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;