Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 33/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 33/2024/DS-PT NGÀY 26/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN 

Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 247/2023/TLPT-DS ngày 02 tháng 11 năm 2023, về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2023/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 369/2023/QĐ-PT ngày 14 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đào Thị Lệ H, sinh năm 1957, địa chỉ: Ấp T, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Kim L, sinh năm 1967, địa chỉ: Ấp M, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng theo hợp đồng ủy quyền ngày 20/7/2023 (có mặt).

- Bị đơn:

1. Ông Võ Văn T, sinh năm 1971.

2. Bà Nguyễn Thị Mỹ T1, sinh năm 1979.

Cùng địa chỉ: Ấp T, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện hợp pháp của các bị đơn: Bà Huỳnh Ánh T2, sinh năm 1980; địa chỉ: Số G, đường N, khóm A, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo hợp đồng ủy quyền ngày 22/5/2023 (có mặt).

- Người kháng cáo: Ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 là các bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/6/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 04/8/2018 âm lịch (nhằm ngày 13/9/2018 dương lịch), bà H có cho ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 vay số tiền là 1.040.000.000 đồng (một tỷ không trăm bốn mươi triệu đồng), lãi suất theo thỏa thuận là 1,5%/tháng. Sau khi vay tiền thì ông T và bà T1 thường xuyên vi phạm nghĩa vụ, không thực việc trả tiền lãi cho bà H đúng như đã thỏa thuận. Tính đến ngày 08/5/2023 dương lịch, thì ông T và bà T1 còn nợ tiền lãi suất của bà H là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Như vậy, tổng tiền gốc và lãi mà ông T và bà T1 còn nợ của bà H là 1.140.000.000 đồng (một tỷ một trăm bốn mươi triệu đồng). Sau đó, vào ngày 08/5/2023 dương lịch, bà H có gặp và thống nhất không tiếp tục tính lãi suất phát sinh nữa mà chỉ yêu cầu vợ chồng ông T và bà T1 trả đủ số tiền 1.140.000.000 đồng (một tỷ một trăm bốn mươi triệu đồng) cho bà H nhưng ông T và bà T1 không đồng ý trả cho bà H. Theo đơn khởi kiện ngày 05/6/2023 bà H yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Châu Thành giải quyết: Buộc ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 phải trả cho bà H số tiền gốc vay và lãi suất với tổng số tiền là 1.140.000.000 đồng (một tỷ một trăm bốn mươi triệu đồng). Tuy nhiên, sau khi tính lại lãi suất, bà H thay đổi yêu cầu khởi kiện cụ thể: Yêu cầu ông Vố Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 phải trả cho bà H số tiền là 1.056.633.600 đồng (một tỷ không trăm năm mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm đồng) bao gồm 1.040.000.000 đồng (một tỷ không trăm bốn mươi triệu đồng) tiền gốc và 16.633.600 đồng (mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm đồng) tiền lãi, yêu cầu trả cho bà H trong thời hạn một tháng, không yêu cầu tính lãi.

Trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn trình bày:

Về thời gian thủ tục thỏa thuận vay tiền giữa các bên giống như lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn. Nay ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 thừa nhận còn nợ của bà H số tiền là 1.056.633.600 đồng (một tỷ không trăm năm mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm đồng) bao gồm 1.040.000.000 đồng (một tỷ không trăm bốn mươi triệu đồng) tiền gốc và 16.633.600 đồng (mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm đồng) tiền lãi. Tuy nhiên, do hoàn cảnh của ông T, bà T1 hiện nay đang khó khăn nên yêu cầu trả số tiền trên cho bà H trong thời hạn ba tháng, không tính lãi.

Mặt khác, vào ngày 22/6/2023 ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 có làm đơn yêu cầu phản tố cụ thể: Yêu cầu bà Đào Thị Lệ H trả lại cho ông T, bà T1 số tiền lãi đóng dư là 194.480.000 đồng (một trăm chín mươi bốn triệu bốn trăm tám mươi nghìn đồng) trừ đi tiền lãi còn nợ là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) còn lại là 94.480.000 đồng (chín mươi bốn triệu bốn trăm tám mươi nghìn đồng). Đồng thời, ông T và bà T1 yêu cầu trừ số lãi dư vào vốn vay 1.040.000. 000 đồng (một tỷ không trăm bốn mươi triệu đồng); số tiền còn lại ông T và bà T1 phải thanh toán cho bà H là 945.520.000 đồng (chín trăm bốn mươi lăm triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng); yêu cầu bà H thực hiện đúng theo thỏa thuận là cho ông T và bà T1 được trả chậm trong thời hạn 03 năm (mỗi vụ lúa trả 100.000.000 đồng) cho đến khi hết số nợ.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Huỳnh Ánh T2 cung cấp cho Tòa án đơn xin rút lại toàn bộ yêu cầu phản tố ngày 05/9/2023 của ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1, việc rút toàn bộ yêu cầu phản tố của ông T, bà T1 là tự nguyện.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2023/DS-ST ngày 05/9/2023, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:

“Tuyên xử:

1. Buộc bị đơn ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 phải có trách nhiệm trả cho nguyên đơn bà Đào Thị Lệ H số tiền là 1.056.633.600 đồng (một tỷ không trăm năm mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm đồng) bao gồm 1.040.000.000 đồng (một tỷ không trăm bốn mươi triệu đồng) tiền gốc và 16.633.600 đồng (mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm đồng) tiền lãi.

Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của nguyên đơn bà Đào Thị Lệ H cho đến khi thi hành án xong, nếu bị đơn ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 không trả số tiền nêu trên cho nguyên đơn bà Đào Thị Lệ H thì hàng tháng bị đơn ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 còn phải trả cho nguyên đơn bà Đào Thị Lệ H số tiền lãi đối với số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Đình chỉ xét xử đối với toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 theo đơn phản tố ngày 22/6/2023 về việc yêu cầu bà Đào Thị Lệ H trả lại cho Võ Vãn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 số tiền lãi đóng dư là 194.480.000 đồng (một trăm chín mươi bốn triệu bốn trăm tám mươi nghìn đồng) trừ đi tiền lãi còn nợ là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) còn lại là 94.480.000 đồng (chín mươi bốn triệu bốn trăm tám mươi nghìn đồng). Đồng thời, ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 yêu cầu trừ số lãi dư vào vốn vay 1.040.000.000 đồng (một tỷ không trăm bốn mươi triệu đồng); số tiền còn lại ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 phải thanh toán cho bà Đào Thị Lệ H là 945.520.000 đồng (chín trăm bốn mươi lăm triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng); yêu cầu bà Đào Thị Lệ H thực hiện đúng theo thỏa thuận là cho ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 được trả chậm trong thời hạn 03 năm (mỗi vụ lúa trả 100.000.000 đồng) cho đến khi hết số nợ.” Ngoài ra, trong bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 18/9/2023, ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 gửi đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm, ông yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng chấp nhận cho ông, bà được trả chậm tiền vốn vay theo thỏa thuận là 01 năm 03 vụ lúa, mỗi vụ lúa trả 100.000.000 đồng, đồng thời xem xét giảm tiền án phí cho ông, bà.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện, các bị đơn giữ nguyên kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng phát biểu ý kiến: về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Vào ngày 04/8/2018 âm lịch (nhằm ngày 13/9/2018 dương lịch), bà H có cho ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 vay số tiền là 1.040.000.000 đồng (một tỷ không trăm bốn mươi triệu đồng). Hiện nay, ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 còn nợ của bà H số tiền là 1.056.633.600 đồng (một tỷ không trăm năm mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm đồng) bao gồm 1.040.000.000 đồng (một tỷ không trăm bốn mươi triệu đồng) tiền gốc và 16.633.600 đồng (mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm đồng) tiền lãi. Phía ông T và bà T1 thống nhất xác nhận còn nợ bà H số tiền vốn vay 1.040.000.000 đồng. Do vậy, cấp sơ thẩm xét xử buộc ông T và bà T1 có nghĩa vụ thanh toán cho bà H số tiền vốn vay 1.040.000.000 đồng và tiền lãi 16.633.600 đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Nay ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết cho ông, bà được trả chậm tiền vốn vay theo thỏa thuận giữa các bên là: 01 năm làm 03 vụ lúa, mỗi vụ lúa ông, bà sẽ trả cho bà H 100.000.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện nguyên đơn trình bày: Trước đây nguyên đơn có đồng ý cho các bị đơn trả chậm tiền nợ, tuy nhiên sau đó thì phía bị đơn không thực hiện như cam kết nên mới phát sinh tranh chấp và phải khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo lời trình bày của các bên thì chưa đủ cơ sở để xác định thời điểm thực hiện nghĩa vụ thanh toán, bị đơn chưa cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc bà H khởi kiện trước thời hạn trả nợ theo thỏa thuận. Do vậy, cấp sơ thẩm buộc các bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ một lần theo yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở, đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cũng không đồng ý với phương thức thanh toán nợ ông T và bà T1 đưa ra. Do vậy, kháng cáo của ông T và bà T1 về nội dung này chưa có căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[3] Về việc ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 kháng cáo yêu cầu xem xét giảm tiền án phí chưa có cơ sở chấp nhận, vì ông, bà không cung cấp được tài liệu chứng minh mình thuộc trường hợp được giảm tiền án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là:

“Điều 13. Giảm tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án:

1. Người gặp sự kiện bất khả kháng dẫn đến không có đủ tài sản để nộp tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú thì được Tòa án giảm 50% mức tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án mà người đó phải nộp.” [4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng cáo của ông T và bà T1, chấp nhận lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Các nội dung khác trong quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 mỗi người phải chịu án với số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 như đã nêu trên, giữ nguyên bản án sơ thẩm 25/2023/DS-ST ngày 05/9/2023, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ T1 mỗi người phải chịu với số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009038 và số 0009039 cùng ngày 18 tháng 9 năm 2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014/

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 33/2024/DS-PT

Số hiệu:33/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;