Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 33/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 33/2022/DS-PT NGÀY 04/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2022/TLPT-DS ngày 10/02/2022 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 04/2021/DS-ST ngày 29/12/2021 của Toà án nhân dân huyện A, tỉnh Thanh Hóa bị kháng nghị.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 20/2022/QĐ-PT ngày 15 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Chu Thị C - Sinh năm 1978. Có mặt. Nơi cư trú: thôn N, xã L, huyện A, tỉnh Thanh Hoá.

- Bị đơn:Chị Cầm Thị Q - Sinh năm 1970. Có mặt. Nơi cư trú: thôn G, xã L, huyện A, tỉnh Thanh Hoá.

- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa nguyên đơn chị Chu Thị C trình bày:

Do có quan hệ quen biết nên vào ngày 13/3/2020 chị cho chị Cầm Thị Q vay tổng số tiền 512.000.000đ (năm trăm mười hai triệu đồng). Chị Q có viết giấy vay tiền, chị Q cam kết giải quyết xong công việc gia đình sẽ trả tiền cho chị qua lương hoặc khi nào vay được tiền Ngân hàng sẽ trả. Khi chị cần tiền báo trước cho chị Q, chị Qsẽ thực hiện đúng cam kết trả đầy đủ số tiền đã vay. Về lãi suất do hai bên tự thỏa thuận. Khi viết giấy vay tiền chị Q có gửi lại chị Sầm Sơn Sầm Sơn Sầm Sơn C 01 số bảo hiểm xã hội mang tên Cầm Thị Q, hiện chị đã trả lại cho chị Q. Đến khoảng tháng 06 năm 2020 chị làm nhà nên chị điện thoại thông báo cho chị Q, trực tiếp đến đòi nhiều lần, nhưng chị Q không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết màcòn làm đơn tố cáo chị C cho chị Q vay nặng lãi. Nay chị đề nghị Tòa án giải quyết buộcchị Cầm Thị Q phải trả cho chị tiền gốc là 512.000.000đ. Về lãi tính từ ngày 13/3/2020đến 29/12/2021 là 21(hai mươi mốt) tháng 16 (mười sáu) ngày. Tiền gốc 512.000.000đồng x 1%/tháng = 5.120.000đx 21 tháng 16 (mười sáu) ngày =110.250.000đ.Tổng gốc:

512.000.000đ + lãi 110.250.000đ = 622.250.000đ (sáu trăm hai mươi hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

* Tại các bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Cầm Thị Q trình bày:

Do có quan hệ quen biết từ năm 2016 chị có vay tiền của chị Chu Thị C nhiều lần cứ mỗi lần vay từ 1.000.000đ đến 15.000.000đ, lần nhiều nhất là 20.000.000đ hình thức vay lãi ngày 5.000đ/ngày và chốt nợ làm nhiều lần, lần 1:

100.000.000đồng; lần 2: 200.000.000đồng; lần 3: 400.000.000đồng, những lần vay trên chịđều viết giấy vay tiền chị C giữ. Ngày 13/3/2020, chị Chu Thị C gọi chị xuống nhà để ép chốt nợ (viết giấy vay tiền) tổng cộng là 512.000.000đ (năm trăm mười hai triệu đồng).Số tiền vay chị cam kết trả nợ bằng hình thức trả qua lương hoặc khi vay được tiền Ngân hàng chị sẽ trả. Về lãi suất theo thỏa thuận và chỉ tính lãi số tiền 400.000.000đ. Chị có gửi lại chị C 01 sổ bảo hiểm xã hội mang tên Cầm Thị Q, hiện chị Q đã nhận lại. Tính từ ngày vay chị đã trả nhiều lần số tiền gốc, lãi, mỗi lần trả chị C có ghi vào sổ chị C giữ, tổng số tiền chị đã trả được cho chị C 480.000.000đ, hiện chị chỉ còn nợ chị Csố tiền 32.000.000đ. Nay chị C yêu cầu chị phải trả số tiền gốc 512.000.000đ, lãi số tiền 110.250.000đ, chị không đồng ý.Chị chỉ chấp nhận còn nợ chị C số tiền 32.000.000đ, hiện nay do điều kiện kinh tế khó khăn nên chị xin trả chị C 500.000đ/tháng hoặc 1.000.000đ/tháng cho đến khi trả hết số nợ.

Tại bản án dân sự số 04/2021/DS-ST ngày 29/12/2021 của Toà án nhân dân huyện A đã quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; khoản 1 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 357; Điều 463; Điều 466; Điều 468 Bộ Luật Dân sự.Điểm b khoản 1Điều 24; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí vàlệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Chu Thị C.

Buộc chị Cầm Thị Q phải trả nợ cho chị Chu Thị C số tiền 622.250.000đ (sáu trăm hai mươi hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Trong đó tiền gốc 512.000.000đ (năm trăm mươi hai triệu đồng), tiền lãi 110.250.000đ (một trăm mười triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Chị Cầm Thị Q phải nộp 31.112.500đ án phí dân sự sơ thẩm Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên lãi suất chậm trả, quyền kháng cáo.

Ngày 12/01/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện A ban hành quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-DS, với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về lãi suất và án phí dân sự sơ thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm:

- Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát huyện A. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án - Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá: Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về nội dung: Việc tính lãi trên số tiền 512.000.000đ và mức lãi suất 1%/tháng và mức án phí như Tòa án sơ thẩm là không chính xác. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự, chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm về lãi suất và án phídân sự sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến, tranh luận của các đương sự, và quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Các đương sự đều thừa nhận có việc vay tiền giữa các bên với nhau, cụ thể: ngày 13/3/2020, chị Cầm Thị Q có viết giấy vay nợ chị Chu Thị C số tiền 512.000.000đ.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm:

Chị Cầm Thị Q có đơn tố cáo chị Chu Thị C cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện A đã tiến hành giải quyết tin báo tố giác tội phạm đối với đơn tố giác của chị Cầm Thị Q. Và tại công văn số 321/CSĐT ngày 08/8/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Axác định lãi suất cho vay không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên không khởi tố vụ án.

Chị Cầm Thị Q cho rằng đã trả cho chị Chu Thị C tổng cộng 480.000.000đ, hiện nay chỉ còn nợ 32.000.000đ. Tuy nhiên, tại Tòa án cấp sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm chị Cầm Thị Q không có tài liệu, chứng cứ chứng minh số tiền đã trả cho chị Chu Thị C. Tòa án cấp sơ thẩm xác định chị Cầm Thị Q còn nợ chị Chu Thị C số tiền 512.000.000đ tiền gốc là đúng.

[3] Về kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện A:

Như trên đã phân tích số tiền gốc chị Cầm Thị Q còn nợ chị Chu Thị C 512.000.000đ và buộc chị Q phải trả cho chị C là đúng. Về lãi suất: Tại giấy vay tiền ngày 13/3/2020 thể hiện chị Chu Thị C chỉ tính lãi trên số tiền 400.000.000đ. Như vậy, việc vay tiền giữa chị Chu Thị C và chị Cầm Thị Q là cho vay có trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất. Theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”. Trong vụ án này, lãi suất chỉ được tính trên số tiền gốc 400.000.000đ, và mức lãi suất tương ứng 0,83%/tháng (10%/năm). Tòa án cấp sơ thẩm tính lãi trên số tiền 512.000.000đ và lãi suất 1%/tháng là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự, cũng như tại điểm a khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Dẫn đến việc tính án phí dân sự sơ thẩm không chính xác.

Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện A là có căn cứ. Số tiền lãi và mức lãi suất được tính lại, cụ thể: Chị Cầm Thị Q phải trả cho chị Chu Thị C số tiền lãi tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm cụ thể như sau:400.000.000đ x 0,83%/tháng x 21 tháng 16 ngày = 71.490.000đ. Tổng tiền gốc và lãi chị Cầm Thị Q phải trả cho chị Chu Thị C là 583.490.000đ, và án phí dân sự sơ thẩm chị Cầm Thị Q phải chịu theo quy định tại điểm c khoản 1.3 mục 1 phần II Danh mục án phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/QH14 về án phí, lệ phí là 27.339.000đ.

[4] Về án phí phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Các Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự. Điểm d khoản 1 Điều 11Nghị quyết 326/2016/QH14; điểm c khoản 1.3 mục 1 phần II Danh mục án phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/QH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện A, sửa bản án dân sự sơ thẩm số 04/2021/DS-ST ngày 29/12/2021 của Toà án nhân dân huyện A, tỉnh Thanh Hóa. Xử:

- Buộc chị Cầm Thị Q phải trả nợ cho chị Chu Thị Ctổng số tiền 583.490.000đ (năm trăm tám mươi ba triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng).

Trong đó tiền gốc 512.000.000đ (năm trăm mười hai triệu đồng), tiền lãi 71.490.000đ (bảy mươi mốt triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng).

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

- Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Cầm Thị Qphải chịu 27.339.000đ.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu.

Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 33/2022/DS-PT

Số hiệu:33/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;