Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 30/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 30/2024/DS-ST NGÀY 25/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2024/TLST-DS ngày 10 tháng 01 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2024/QĐXX-ST ngày 18 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 80/2024/QĐST-DS ngày 09 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị H, sinh năm 1964; (có mặt) Nơi cư trú: số B, tổ A, ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang. SĐT: 0366690680 2. Bị đơn:

2.1 Ông Phan Phương B, sinh năm 1979; SĐT: 0364020839 (vắng mặt) 2.2 Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1979; (vắng mặt) Cùng nơi cư trú: tổ A, ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Phan Thị H trình bày:

Vào ngày 31/10/2023, ông Phan Phương B và bà Nguyễn Thị T có vay của bà số tiền: 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng), để đáo hạn ngân hàng, lãi suất thỏa thuận là 3%/tháng. Thời hạn vay là một tháng, kể từ ngày 31/10/2023 ông B, bà T sẽ trả đủ lại cho bà. Đến hết thời gian hẹn, quá hạn nhiều ngày, bà nhắc nhở nhiều lần mà ông B, bà T không thực hiện lời hứa. Sau đó, bà biết ông B, bà T vay tiền của bà để tất toán ngân hàng, lấy giấy tờ đất của hai người ra làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác, mà không cho bà biết. Ông B, bà T không đóng lãi cũng như không trả cho bà một đồng vốn nào. Sau khi sự việc xảy ra ông B, bà T lánh mặt, bà liên lạc bằng nhiều cách nhưng không được. Do đó, bà khởi kiện yêu cầu: ông Phan Phương B và bà Nguyễn Thị T phải trả cho bà số tiền:

1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng) và phải tính lãi chậm trả theo quy định pháp luật tính từ ngày 31/10/2023 đến ngày giải quyết vụ kiện.

* Toà án đã nhiều lần triệu tập bị đơn ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, cũng như tham gia phiên toà nhưng ông B, bà T đều vắng mặt không có lý do, đồng thời cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Toà án đã tiến hành các thủ tục xác minh, lấy lời khai bị đơn tại nơi cư trú nhưng ông B, bà T không có mặt ở nhà khi cán bộ Toà án đến, nên Toà án không lấy được lời khai của bị đơn.

Tại phiên toà:

- Nguyên đơn bà Phan Thị H trình bày: vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bà yêu cầu Tòa án phong tỏa tài sản của bị đơn ông B, bà T.

- Bị đơn ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T: vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông B, bà T chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.

+ Về việc giải quyết vụ án: Việc bị đơn ông B, bà T vi phạm nghĩa vụ trả tiền đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích của nguyên đơn bà H. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H, buộc bị đơn ông B, bà T phải trả số tiền gốc là 1.000.000.000 đồng và lãi suất theo quy định pháp luật.

Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên các bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

1.1 Về quan hệ pháp luật: nguyên đơn bà Phan Thị H khởi kiện yêu cầu ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T trả số tiền vay là tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 463 Bộ luật dân sự.

1.2 Về thẩm quyền giải quyết: Theo biên bản xác minh ngày 22/02/2024 tại Công an xã V, huyện C, tỉnh An Giang xác nhận ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T hiện có đăng ký thường trú tại tổ A, ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

1.3 Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông B, bà T.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị H thấy:

Căn cứ lời trình bày của nguyên đơn và giấy nhận nợ ngày 31/10/2023 có chữ ký, họ tên, lăn tay của ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T đã xác định được ông B, bà T có vay của bà H số tiền 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng chẵn), lãi suất 3%/tháng, thời hạn vay: 01 tháng từ 31/10/2023 đến 31/11/2023.

Xét thấy, sự thỏa thuận giữa ông B, bà T với bà H là hoàn toàn tự nguyện, hình thức và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119 của Bộ luật dân sự nên được xem là hợp pháp, qua đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

Căn cứ vào Điều 463 Bộ luật dân sự quy định “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại, theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.” và khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự quy định về nghĩa vụ trả nợ: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Như vậy, qua đối chiếu giấy nhận nợ và lời trình bày của nguyên đơn bà H thể hiện ông B, bà T còn nợ nguyên đơn số tiền 1.000.000.000 đồng.

Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng nhưng ông B, bà T vắng mặt không lý do, không tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải, không có văn bản trình bày ý kiến, cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Căn cứ quy định tại Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về nghĩa vụ chứng minh, thì “2) Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó. 4) Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc” và khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”.

Mặt khác, tại phiên tòa xét xử hôm nay (lần thứ 2) bị đơn ông B, bà T tiếp tục vắng mặt được coi là đã từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại khoản 5 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ giấy nhận nợ ngày 31/10/2023 xác định ông B, bà T còn nợ bà H số tiền 1.000.000.000 đồng và phải có nghĩa vụ thanh toán số nợ này cho bà H.

Từ đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn ông B, bà T phải trả một lần cho bà H số tiền là 1.000.000.000 đồng.

* Về lãi suất: Trường hợp vay giữa ông B, bà T với bà H được xác định là vay có lãi. Theo nguyên đơn bà H trình bày từ ngày vay 31/10/2023 đến nay ông B, bà T không trả tiền vốn cũng như đóng lãi cho bà lần nào. Xét thấy, ông B, bà T chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền nên phải có nghĩa vụ trả lãi theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự. Nhận thấy các bên có thỏa thuận về việc trả lãi và xác định rõ mức lãi suất; bà H yêu cầu tính lãi chậm trả theo quy định pháp luật là phù hợp, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu tính lãi của bà H. Cụ thể:

Từ ngày 31/10/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm (25/4/2024) là 05 tháng 25 ngày.

1.000.000.000 đồng x 1.66% x 5 tháng = 83.000.000 đồng 1.000.000.000 đồng x 0.0553% x 25 ngày = 13.825.000 đồng Tổng lãi: 83.000.000 đồng + 13.825.000 đồng = 96.825.000 đồng Tổng cộng vốn gốc và lãi là: 1.000.000.000 đồng + 96.825.000 đồng = 1.096.825.000 đồng.

Như vậy, ông B, bà T phải trả cho bà H tổng số tiền vốn và lãi là:

1.096.825.000 đồng (Một tỷ, không trăm chín mươi sáu triệu, tám trăm hai mươi lăm ngàn đồng).

Tại phiên tòa, bà H yêu cầu phong tỏa tài sản của bị đơn ông B, bà T vì cho rằng có dấu hiệu tẩu tán tài sản, tuy nhiên bà H không cung cấp được chứng cứ chứng minh ông B, bà T có tài sản, có hành vi tẩu tán tài sản nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bà H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Bị đơn ông B, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 44.904.750 đồng.

[4] Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 5 Điều 70, Điều 91, khoản 2 Điều 92, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 463 Điều 357, khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị H. Buộc bị đơn ông Phan Phương B và bà Nguyễn Thị T phải trả một lần cho bà Phan ThịH số tiền là: 1.096.825.000 đồng (Một tỷ, không trăm chín mươi sáu triệu, tám trăm hai mươi lăm ngàn đồng), trong đó tiền vốn là 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng), lãi là: 96.825.000 đồng (Chín mươi sáu triệu, tám trăm hai mươi lăm ngàn đồng) Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí sơ thẩm:

Bà Phan Thị H được nhận lại số tiền 21.000.000 đồng (Hai mươi mốt triệu đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004413 ngày 10/01/2024 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

Ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T phải chịu 44.904.750 đồng (Bốn mươi bốn triệu, chín trăm lẻ bốn ngàn, bảy trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bà Phan Thị H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông Phan Phương B, bà Nguyễn Thị T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 30/2024/DS-ST

Số hiệu:30/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;