Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 28/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A

BẢN ÁN 28/2021/DS-ST NGÀY 24/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 152/2020 TLST-DS ngày 10/11/2020, về việc “ tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2021/QĐXXST-DS ngày 02/11/2021và Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2021/QĐST-DS ngày 26 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng T,, địa chỉ:Số ** đường N, Phường 8, Quận 3, Thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D - Tổng Giám đốc. Người đại diện ủy quyền: Ông Trần Minh S- Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng T - chi nhánh A, địa chỉ: số ** đường T, phường Mỹ Quý, thành phố Long Xuyên, tỉnh A (Theo Quyết định số 3977/2020/QĐ-PL ngày 28/12/2020). Ông Trần Minh Sơn ủy quyền lại cho ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1991- chức vụ: Phó phòng giao dịch T - chi nhánh A, theo Giấy ủy quyền ngày 22/12/2021;

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bích L, sinh năm 1985, địa chỉ: khóm X, thị trấn T, huyện T,tỉnh A.

Ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị Bích L có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án,cũng như tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng T trình bày: Vào ngày 16/10/2018, bà Nguyễn Thị Bích L có vay của Ngân hàng T số tiền vốn gốc 50.000.000 đồng, theo Hợp đồng kiêm giấy nhận nợ số 01038-00566 ngày 16/10/2018, mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh quán cà phê tại nhà, thời hạn 182 ngày, lãi suất 2%/tháng tương ứng với lãi suất đượca án định theo hợp đồng.

Cho vay không có tài sản đảm bảo. Bên được cấp tín dụng đồng ý không hủy ngang vô điều kiện cho Sacombank được toàn quyền xử lý (hoặc chỉ định bên thứ ba để xử lý) bất kì tài sản nào thuộc sở hữu của bên được cấp tín dụng để thu hồi nợ trong trường hợp Bên được cấp tín dụng vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào theo hợp đồng này.

Trong quá trình vay, bà L đã thanh toán được số tiền vốn 30.070,300 đồng và số tiền lãi 1.161.200 đồng. Nhưng bà L không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình cho Ngân hàng, việc này đã vi phạm Hợp đồng tín dụng đã ký. Ngân hàng đã nhiều lần liên hệ làm việc nhưng không có kết quả. Đến nay bà L còn nợ Ngân hàng T với số tiền vốn là 19.929.700 đồng và lãi 4,822,500 đồng.

Do đó, Ngân hàng T yêu cầu:

- Bà Nguyễn Thị Bích L phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền vốn là 19.929.700 đồng và lãi 4,822,500 đồng, ngoài ra không yêu cầu lãi quá hạn, phạt lãi theo hợp đồng, cũng như lãi phát sinh cho đến thi hành xong bản án.

Tại phiên tòa, bị đơn bà Nguyễn Thị Bích L trình bày: Thống nhất với trình bày của đại diện Ngân hàng, vào ngày 16/10/2018, bà có vay của Ngân hàng T số tiền vốn gốc 50.000.000 đồng, theo Hợp đồng kiêm giấy nhận nợ số 01038-00566 ngày 16/10/2018, mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh quán cà phê tại nhà, thời hạn 182 ngày, lãi suất 2%/tháng tương ứng với lãi suất đượca án định theo hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà đã trả được vốn gốc là 30.070,300 đồng và số tiền lãi 1.161.200 đồng; Còn nợ lại số tiền vốn là 19.929.700 đồng và lãi 4,822,500 đồng; Nhưng do hoàn C khó khăn, không có khả năng trả tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận của hợp đồng đã ký kết.

Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án như sau:

- Về tố tụng:

+ Thẩm phán: Được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Thẩm phán còn để quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại điều 203 BLTTDS,

+ Hội đồng xét xử, Thư ký: Hội đồng xét xử, thư ký đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn cơ bản đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71, 72, 73, 74 BLTTDS.

- Về nội dung: Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số 01038-00566 ngày 16/10/2018 được xác lập giữa Ngân hàng T - Chi nhánh A - PGD T với Nguyễn Thị Bích L là trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật, nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên. Tính từ lúc vay, Bà Nguyễn Thị Bích L đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mặc dù được Ngân hàng nhiều lần nhắc nợ. Vì vậy, bà Nguyễn Thị Bích L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên việc Ngân hàng khởi kiện yêu cầu trả số tiền vốn là là 19.929.700 đồng và lãi 4,822,500 đồng là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Thẩm quyền: Ngân hàng T khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Bích L trả số tiền đã vay theo họp đồng vay số theo Hợp đồng tín dụng số 01038-00566 ngày 16/10/2018; Bà Nguyễn Thị Bích L đang cư trú trên địa bàn huyện T; nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c, khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2019.

[1.2] Về thời hiệu khởi kiện: Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số theo Hợp đồng tín dụng số số 01038-00566 ngày 16/10/2018, thời hạn vay 182 ngày, trả góp trả gốc và lãi hàng ngày. Bà Nguyễn Thị Bích L đã vi phạm hợp đồng từ ngày 28/01/2019, đến ngày 29/10/2020 Ngân hàng khởi kiện, nên vẫn còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2019, Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015 là 03 năm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét thấy, bà Nguyễn Thị Bích L có vay của Ngân hàng T - Chi nhánh A - PGD T số tiền vốn gốc 20.000.000 đồng, theo Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số 01038-00566 ngày 16/10/2018, thỏa thuận mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh bánh mì, thời hạn 182 ngày, lãi suất 2%/tháng, tương ứng với lãi suất tại thời điểm cho vay, theo phương thức trả góp 307.700 đồng/ngày, kỳ trả nợ đầu tiên vào ngày 16/10/2018; Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà L đã thực hiện trả vốn được 30.070,300 đồng và số tiền lãi 1.161.200 đồng; Thì bà L không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ;

[2.2] Căn cứ Điều 5 của Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số 01206- 00062 ngày 30/11/2017 thì lãi suất vay 24%/năm tính trên số dư nợ thực tế. Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng ngày 17/6/2010 thì “ Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Theo đó, bà L sẽ tiếp tục chịu lãi theo lãi suất trong Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số 01038-00566 ngày 16/10/2018 đã ký kết cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản nợ. Tuy nhiên, tại phiên tòa đại diện Ngân hàng chỉ yêu cầu trả mức lãi suất cố định và không yêu cầu điều chỉnh lãi suất theo Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số 01206-00082 ngày 07/02/2018, xét tiền lãi Ngân hàng yêu cầu nằm trong thỏa thuận, không vượt mức đã thỏa thuận theo hợp đồng, cũng như yêu cầu tính lãi phát sinh cho đến khi thi hành xong bản án, nên có cở sở xem xét chấp nhận.

[2.3] Từ những phân tích trên, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng T.

[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Bích L phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm; Hoàn trả cho Ngân hàng T tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 136, Điều 138, Điều 144, Điều 147,Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2019; khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng; Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng; khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của của Ngân hàng T, Buộc bà Nguyễn Thị Bích L có trách nhiệm trả cho Ngân hàng T số tiền còn nợ phát sinh theo Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số 01038-00566 ngày 16/10/2018 vốn gốc 19,929.700 (Mười chín triệu chín trăm hai mươi chín ngàn bảy trăm đồng) và tiền lãi 4,822,500 (Bốn triệu tám trăm hai mươi hai ngàn năm trăm đồng);

Về án phí:

- Bà Nguyễn Thị Bích L phải chịu 1,237,000 (một triệu hai trăm ba mươi bảy ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm;

- Hoàn trả cho Ngân hàng T số tiền 860.000 (Tám trăm sáu chục ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm Ngân hàng đã nộp theo biên lai thu số TU/2019/0005888 ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Ngân hàng T và bà Nguyễn Thị Bích L có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 28/2021/DS-ST

Số hiệu:28/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;