Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 232/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG     

BẢN ÁN 232/2020/DS-ST NGÀY 11/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 436/2020/TLST-DS ngày 09/11/2020 về việc tranh chấp: “Hợp đồng vay tài sản”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 267/2020/QĐST-DS ngày 01/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Lan P, sinh năm 1949.

Địa chỉ: ấp 4, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Bà Đặng Thị Thanh T, sinh năm 1970.

Địa chỉ: ấp 4, xã A, huyện C tỉnh Tiền Giang.

(Bà P, bà T có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 20/10/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Nguyễn Thị Lan P trình bày:

Ngày 15/8/2019 âm lịch bà P cho bà T vay số tiền 30.000.000 đồng, thời gian trả vốn ngày 15/12/2019 âm lịch, hai bên không thỏa thuận lãi. Ngày 28/5/2020 âm lịch bà P cho bà T vay số tiền 70.000.000 đồng, thỏa thuận lãi 1.000.000 đồng/tháng.

Tại tòa sơ thẩm bà P chỉ yêu cầu bà Th trả số tiền 30.000.000 đồng theo biên nhận ngày 15/8/2019 và lãi chậm trả 0,83%/tháng tính từ ngày 20/3/2020 cho đến ngày xét xử yêu cầu trả vốn và lãi một lần sau khi án có hiệu lực pháp luật. Còn đối với số tiền 70.000.000 đồng theo biên nhận ngày 28/5/2020 âm lịch bà P xin rút lại không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, để hai bên thỏa thuận.

* Tại bản tự khai các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Đặng Thị Thanh T trình bày:

Bà T thống nhất với lời trình bày của bà P về việc có vay 02 lần tiền và hiện còn nợ số tiền 100.000.000 đồng cho đến nay vẫn chưa trả cho bà P. Tuy nhiên, tại tòa bà P xin rút lại chưa yêu cầu trả số tiền 70.000.000 đồng mà chỉ yêu cầu bà T trả số tiền 30.000.000 đồng thì bà T thống nhất không có ý kiến gì.

Nay bà T cũng đồng ý trả cho bà P số tiền vay 30.000.000 đồng và trả lãi chậm trả 0,83%/tháng tính từ ngày 20/3/2020 cho đến ngày xét xử theo yêu cầu khởi kiện của bà P, nhưng xin trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi hết nợ, không đồng ý trả lãi theo yêu cầu của bà P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét, theo lời trình bày của bà P với bà T trình bày thống nhất bị đơn bà T có vay số tiền 30.000.000 đồng theo biên nhận ngày 15/8/2019 âm lịch cho đến nay chưa trả, nên lời thừa nhận của bà T đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, bà P khởi kiện yêu cầu bà T trả số tiền 30.000.000 đồng là có cơ sở chấp nhận phù hợp với quy định tại Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự.

[2] Ngoài ra, bà P yêu cầu trả lãi chậm trả theo lãi ngân hàng 0,83%/tháng tính từ ngày 20/3/2020 đến ngày xét xử lấy tròn 09 tháng. Xét, yêu cầu tính lãi của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, căn cứ vào biên nhận ngày 15/8/2019 âm lịch thì hai bên không thoả thuận lãi suất cụ thể bao nhiêu, nhưng nay nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi với mức lãi suất chậm trả theo quy định 0,83%/tháng là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự và tại phiên tòa bị đơn bà T cũng đồng ý trả lãi theo yêu cầu của bà P. Do đó, lãi suất bị đơn bà T phải trả tính từ ngày 20/3/2020 cho đến ngày xét xử lấy tròn là 09 tháng x 0,83% x 30.000.000 đồng = 2.241.000 đồng (Hai triệu hai trăm bốn mươi mốt ngàn đồng).

[3] Theo đơn kiện ngày 20/10/2020 bà P có yêu cầu bà T trả số tiền vốn 70.000.000 đồng theo biên nhận nợ ngày 28/5/2020 và lãi tính từ ngày 20/3/2020 đến ngày xét xử mức lãi chậm trả 0,83%/tháng, nhưng tại phiên toà bà P xin rút lại để hai bên thỏa thuận. Xét, việc rút yêu cầu nói trên là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này của bà P.

[4] Tại phiên toà nguyên đơn, bị đơn không thoả thuận được về thời gian trả số tiền vốn và lãi. Cho nên, về phương thức trả, thời gian trả số tiền trên do hai bên đương sự thỏa thuận với nhau khi đến giai đoạn thi hành án.

[5] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P, căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, nên bà T phải chịu 1.612.000 đồng (Một triệu sáu trăm mười hai ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự; điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244, Điều 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Xử :

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Nguyễn Thị Lan P về việc yêu cầu bà Đặng Thị Thanh T trả số tiền vay 70.000.000 đồng theo biên nhận ngày 28/5/2020 và lãi chậm trả tính từ ngày 20/3/2020 đến ngày xét xử mức lãi 0,83%/tháng.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Lan P.

Buộc bà Đặng Thị Thanh T trả cho bà Nguyễn Thị Lan P số tiền vay vốn 30.000.000 đồng, lãi 2.241.000 đồng. Tổng cộng vốn và lãi 32.241.000 đồng (Ba mươi hai triệu hai trăm bốn mươi mốt ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Bà Đặng Thị Thanh T phải chịu 1.612.000 đồng (Một triệu sáu trăm mười hai ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Do bà Nguyễn Thị Lan P là người cao tuổi có đơn xin miễn nộp tiền tạm ứng án phí và được Tòa án chấp nhận cho miễn tạm ứng án phí, nên không có hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho bà P.

4. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Lan P, bà Đặng Thị Thanh T được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 232/2020/DS-ST

Số hiệu:232/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;